Quý I/2023: Xuất nhập khẩu ước đạt 154,27 tỷ USD

Tính chung quý I năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 154,27 tỷ USD; cán cân thương mại xuất siêu 4,07 tỷ USD.

Xuất nhập khẩu hàng hóa suy giảm

Quý I/2023, bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm với chính sách thắt chặt tiền tệ ở nhiều quốc gia làm suy giảm nhu cầu tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn đã ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam.

Theo thông tin Tổng cục Thống kê công bố, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng Ba ước đạt 58,49 tỷ USD, tăng 18,6% so với tháng trước và giảm 13% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 154,27 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 11,9%; nhập khẩu giảm 14,7%.

Nhu cầu tiêu dùng suy giảm khiến xuất nhập khẩu khó khăn

Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, bộ ngành và địa phương cùng với với sự nỗ lực của các doanh nghiệp xuất khẩu nên cán cân thương mại hàng hóa quý I năm 2023 ước tính xuất siêu 4,07 tỷ USD.

Cụ thể, ở chiều xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 3/2023 ước đạt 29,57 tỷ USD, tăng 13,5% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 7,33 tỷ USD, tăng 12,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 22,24 tỷ USD, tăng 13,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 3 giảm 14,8%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 16%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 14,4%.

Tính chung quý I năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 79,17 tỷ USD, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 19,26 tỷ USD, giảm 17,4%, chiếm 24,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 59,91 tỷ USD, giảm 10%, chiếm 75,7%.

Trong quý I năm 2023 có 14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 77,4% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 04 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 52,8%).

Nhóm hàng nông sản, lâm sản ước đạt 6,07 tỷ USD

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu quý I năm 2023, nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản ước đạt 1,07 tỷ USD, chiếm 1,3%; nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 70,24 tỷ USD, chiếm 88,7%; nhóm hàng nông sản, lâm sản ước đạt 6,07 tỷ USD, chiếm 7,7%; nhóm hàng thủy sản ước đạt 1,79 tỷ USD, chiếm 2,3%.

Nhập khẩu chủ yếu phục vụ sản xuất

Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2023 ước đạt 28,92 tỷ USD, tăng 24,4% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 10,72 tỷ USD, tăng 35,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 18,2 tỷ USD, tăng 18,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Ba giảm 11,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 7,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 13%.

Tính chung quý I năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 75,1 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 26,03 tỷ USD, giảm 13,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 49,07 tỷ USD, giảm 15,4%.

Trong quý I năm 2023 có 17 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 75,1% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 02 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 37,6%).

Hàng hóa nhập khẩu về vẫn chủ yếu phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước khi nhóm hàng tư liệu sản xuất ước đạt 70,22 tỷ USD, chiếm 93,5%, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 43,8%; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 49,7%. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng quý I chỉ đạt 4,88 tỷ USD, chiếm 6,5% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Về thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa quý I năm 2023, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 20,6 tỷ USD. Tiếp sau là Trung Quốc với kim ngạch ước đạt 23,6 tỷ USD.

Đáng chú ý, trong quý I năm 2023, xuất siêu sang Mỹ ước đạt 17,5 tỷ USD, giảm 23,4% so với cùng kỳ năm trước. Các Hiệp định thương mại tự do (FTA) vẫn mang lại hiệu quả tích cực khi xuất siêu sang EU ước đạt 6,9 tỷ USD. Con số này cho thấy EU vẫn là thị trường lớn và đầy tiềm năng của hàng hóa Việt Nam.

Với kim ngạch xuất nhập khẩu như vậy, cán cân thương mại hàng hóa tháng 3 ước tính xuất siêu 0,65 tỷ USD. Tính chung quý I năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 4,07 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 1,9 tỷ USD).

Bộ Công Thương tích cực tháo gỡ khó khăn cho xuất nhập khẩu

Trước những diễn biến khó lường của hoạt động xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương đang tiếp tục theo dõi sát diễn biến của thị trường thế giới, tham mưu, đề xuất các khung khổ hợp tác, các giải pháp để đồng thời phát triển thị trường truyền thống và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các FTA đã ký kết khai thác hiệu quả các thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu…

Mới đây nhất, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Quyết định số 165/QĐ-TTg ngày 28/02/2023 phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương đến năm 2030. Theo đó, Quyết định đặt ra mục tiêu duy trì thặng dư cán cân thương mại với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn cao hơn nhập khẩu và tăng bình quân khoảng 6 – 8%/năm.

Để hoàn thành mục tiêu đó, Bộ Công Thương xác định tiếp tục đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu, chú trọng phát triển xuất khẩu qua thương mại điện tử xuyên biên giới, hệ thống phân phối nước ngoài và đẩy mạnh phát triển thương hiệu hàng Việt Nam, gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng chế biến sâu, công nghệ cao và tỷ lệ nội địa hóa lớn; phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới, tạo sự đột phá như các sản phẩm Halal sang các thị trường Hồi giáo, sản phẩm Kosher sang thị trường Do thái, hàng hóa môi trường và các bon thấp…

Bên cạnh đó, phát triển thương mại điện tử thành một kênh phân phối quan trọng, hỗ trợ tích cực trong tiêu thụ hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa nông sản, hàng công nghiệp tiêu dùng; phát triển các trung tâm tiêu dùng mới. Số hóa các hoạt động xúc tiến thương mại.

Đặc biệt, chú trọng nâng cấp và phát triển các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của các ngành dựa trên các lợi thế so sánh ở cấp độ quốc gia, vùng và địa phương để nâng cao giá trị gia tăng, tăng cường năng lực tự chủ của ngành Công Thương. Cụ thể, trong hoạt động xuất nhập khẩu, tiếp tục nâng cấp và phát triển hoàn chỉnh hệ sinh thái xuất nhập khẩu nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển đồng bộ và hiệu quả hệ thống hạ tầng logictics phục vụ xuất nhập khẩu nhằm tối ưu hóa kết nối sản xuất và thương mại, đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và logistics của khu vực.

Tiếp tục nâng cao khả năng đáp ứng quy định, tiêu chuẩn cao về chất lượng của các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các yêu cầu về bảo vệ môi trường, các bon thấp, lao động và công đoàn. Tăng cường năng lực xuất khẩu cho các địa phương. Phát triển các vùng, địa bàn xuất khẩu mới gắn với quá trình cơ cấu lại các ngành công nghiệp theo hướng tập trung chuyên môn hóa.

 

Nguồn: congthuong

Nguyên nhân xuất khẩu nông lâm thủy sản giảm 14,4% trong Quý I/2023

3 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 11,19 tỷ USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng nông lâm thủy sản 3 tháng đầu năm ước đạt 20,63 tỷ USD, giảm 11,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 11,19 tỷ USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái; nhập khẩu ước đạt 9,44 tỷ USD, giảm 7,2%; toàn ngành xuất siêu 1,76 tỷ USD, giảm 39,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, xuất khẩu gạo 3 tháng đầu năm 2023 tuy giảm 19,3% về khối lượng nhưng tăng 30,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022

Riêng trong tháng 3/2023, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 4,66 tỷ USD, tăng 27,0% so với tháng 2 nhưng giảm 6,5% so với tháng 3/2022; trong đó, nhóm nông sản đạt 2,42 tỷ USD (tăng 16,3% so tháng 3/2022), lm sản đạt 1,29 tỷ USD (giảm 22,5% so tháng 3/2022), thủy sản đạt 720 triệu USD (giảm 29% so tháng 3/2022) và chăn nuôi đạt 47,4 triệu USD (tăng 44,8% so tháng 3/2022), đầu vào sản xuất đạt 182 triệu USD (giảm 3,9% so tháng 3/2022) và muối đạt 0,4 triệu USD giảm 29,2% so tháng 3/2022).

Tính chung 3 tháng đầu năm, nhiều mặt hàng xuất khẩu chính có giá trị xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm ngoái nên kim ngạch xuất khẩu ước đạt 11,19 tỷ USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, xuất khẩu nhóm nông sản đạt 5,73 tỷ USD, tăng 3,8%; lâm sản đạt 3,11 tỷ USD, giảm 28,3%; thủy sản đạt 1,7 9 tỷ USD, giảm 29,0%; chăn nuôi đạt 115 triệu USD, tăng 46,5%; đầu vào sản xuất đạt 458 triệu USD, giảm 26,8% và muối đạt 0,9 triệu USD, giảm 31,3%.

Những mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái gồm: gạo đạt 952 triệu USD (tăng 30,2%); nhóm rau quả đạt 935 triệu USD (tăng 10,6%); hạt điều đạt 708 triệu USD (tăng 14,2%); sữa và SP sữa đạt 33,3 triệu USD (tăng 22,2%); thịt, phụ phẩm 37 tỷ USD (tăng 80,1%),…

Ở chiều ngược lại, những mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm ngoái gồm: cà phê đạt 1,27 triệu USD (giảm 2,3%), cao su đạt 552 triệu USD (giảm 22,9%), chè đạt 35 triệu USD (giảm 22,9%), hạt tiêu đạt 239 triệu USD (giảm 3,8%), cá tra đạt 422 triệu USD (giảm 33,1%), tôm đạt 578 triệu USD (giảm 39,4%), gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,88 tỷ USD (giảm 28,3%), sản phẩm mây, tre, cói thảm đạt 172 triệu USD (giảm 34,9%).

Về thị trường xuất khẩu, 3 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu đạt 2,4 tỷ USD (chiếm 21,5% thị phần); đứng thứ 2 là Hoa Kỳ đạt 2,04 tỷ USD (chiếm 18,2%); thứ 3 là Nhật Bản với giá trị xuất khẩu đạt 936 triệu USD (chiếm 8,4%); thứ 4 Hàn Quốc với giá trị xuất khẩu đạt 528 triệu USD (chiếm 4,7%).

Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản giảm, thặng dư thương mại giảm so với cùng kỳ năm ngoái, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nguyên nhân là do kinh tế toàn cầu năm 2023 dự báo tăng trưởng chậm lại; ảnh hưởng từ xung đột quân sự Nga – Ukraine; tình trạng lạm phát cao tại một số nước trên thế giới đã làm giảm nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu nhập khẩu. Thêm vào đó, do sau khi dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát, nhiều nước tái xuất khẩu nông sản và tăng cung trên thị trường; trong khi ở trong nước, nhiều doanh nghiệp chưa ký được đơn hàng xuất khẩu mới năm 2023. Việc này đã được Bộ dự báo trước từ những tháng cuối năm 2022.

Để đẩy mạnh phát triển thị trường, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, trong thời gian tới, Bộ sẽ tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh và biến động thị trường trong nước và thế giới.

Tận dụng các FTAs, đặc biệt là Hiệp định CPTPP, EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản chủ lực, hỗ trợ doanh nghiệp ký kết đơn hàng xuất khẩu mới. Phối hợp hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở nước ngoài.

Chuẩn bị tổ chức Hội nghị các tỉnh biên giới về kết nối giao thương, thúc đẩy thương mại nông sản Việt Nam –Trung Quốc (quý II và quý III/2023); tham gia chuỗi sự kiện quảng bá nông sản chủ lực của Việt nam tại Vương quốc Anh; chuỗi sự kiện Thực phẩm và Đồ uống quốc tế tại Anh nằm trong dịp kỷ niệm 50 năm quan hệ Việt Nam – Anh (quý II/2023).

 

Nguồn: congthuong

Giá gạo xuất khẩu Việt Nam tăng vọt, vượt Thái Lan và Ấn Độ

Châu Á là thị trường lớn nhất

Theo số liệu thống kê của cơ quan Hải quan, trong năm 2022, kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 7,1 triệu tấn với trị giá 3,45 tỷ USD, tăng 13,8% về lượng và tăng 5,1% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2021. Giá xuất khẩu bình quân đạt 486 USD/tấn, giảm 7,7% so với mức bình quân năm 2021.

Giá xuất khẩu gạo tăng cao

Tại báo cáo của Bộ Công Thương gửi Chính phủ về tình hình xuất khẩu gạo năm 2022 và phương hướng xuất khẩu gạo năm 2023, Bộ Công Thương thông tin, Châu Á tiếp tục là thị trường khu vực xuất khẩu lớn nhất trong năm 2022, đạt 4,96 triệu tấn, chiếm gần 71% trong tổng lượng xuất khẩu, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2021. Châu Phi là thị trường khu vực xuất khẩu lớn thứ hai, đạt gần 1,25 triệu tấn, chiếm 17, 8% tổng lượng xuất khẩu, tăng nhẹ 0,2% so với cùng kỳ năm 2021.

Đặc biệt, tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ khoảng 2,45% trong tổng lượng xuất khẩu nhưng khu vực thị trường châu Âu đã có tăng trưởng mạnh mẽ lên tới 90,7% so với năm 2021, đạt 172,2 nghìn tấn (xét về lượng không lớn so với các thị trường khu vực khác nhưng giá trị gia tăng lại cao do đây là thị trường tiêu thụ các sản phẩm gạo thơm chất lượng cao của Việt Nam).

Bước sang tháng 1/2023, xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 359.310 tấn gạo, mang lại 186,6 triệu USD, giá xuất khẩu trung bình 519,3 USD/tấn.

“So với tháng 1 năm 2022, giảm 29% về số lượng, giảm 24,2% trị giá nhưng tăng 6,8% về giá xuất khẩu. Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tháng 1 vẫn tiếp tục chiếm lĩnh các thị trường trọng điểm có nhu cầu tiêu thụ lớn về sản lượng” – Bộ Công Thương chỉ rõ.

Tháng đầu năm 2023, Philippines vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm 35% tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước (lượng đạt trên 129.323 tấn), giảm 44,7% so với cùng kỳ năm 2022 (do trong tháng 01 có hai kỳ nghi lễ kéo dài là Tết Dương lịch và Tết Nguyên đản). Xuất khẩu gạo sang Trung Quốc chiếm trên 13,2% trong tổng lượng với số lượng 47.424 tấn, tăng 13,2% với cùng kỳ năm 2022.

Về phía doanh nghiệp, ông Nguyễn Việt Anh, Tổng Giám đốc Công ty Lương thực Phương Đông chia sẻ, chúng tôi rất lạc quan về ngành gạo. Từ năm 2019 tới nay, ngành gạo có những lúc không còn lúa gạo để bán. Để làm được chuyện đó thì các cơ quan quản lý đã rất nỗ lực trong việc lai tạo giống để tạo ra các sản phẩm chất lượng. Công tác xúc tiến thương mại cũng được thực hiện tốt để đưa gạo ra nước ngoài.

Giá gạo Việt Nam vượt Thái Lan, Ấn Độ

Bộ Công Thương nhận định, thời gian qua, tình hình thương mại hàng hóa toàn cầu nói chung và mặt hàng gạo nói riêng đã phục hồi trở lại sau tác động của dịch Covid-19 nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn do yếu tố khó khăn từ các thị trường như tình trạng lạm phát gia tăng tại các khu vực tiêu thụ lớn như Hoa Kỳ, EU; biến động địa chính trị giữa các nước. Tuy nhiên, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành cùng với các giải pháp khơi thông thị trường, lưu thông hàng hóa, việc thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu đối với mặt hàng gạo đã ghi nhận được một số kết quả tích cực.

Cụ thể, công tác điều hành xuất khẩu gạo đã bám sát mục tiêu tiêu thụ hết lúa gạo cho người nông dân và bảo đảm lợi ích người trồng lúa theo chính sách hiện hành; góp phần bình ổn giá thóc, gạo trong nước. Giá thóc, gạo nội địa đã duy trì ở mức đảm bảo có lãi cho người nông dân.

Cơ cấu chủng loại gạo xuất khẩu đang đi đúng định hướng, chủng loại gạo trắng thường vẫn chiếm tỷ trọng ổn định (dưới 45% tổng lượng gạo xuất khẩu), tiếp đến gạo thơm và gạo nếp chiếm trên 45% tổng lượng gạo xuất khẩu. Ngoài ra xuất khẩu gạo hữu cơ và gạo tăng cường vi chất dinh dưỡng tuy với tỷ trọng còn khiêm tốn nhưng đã làm đa dạng chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam và khẳng định được giá trị hạt gạo xuất khẩu.

Bộ Công Thương khẳng định: “Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục giữ đà tăng trưởng trong 2 tháng đầu năm 2023, nhiều thời điểm trong các tháng, giá gạo xuất khẩu 5% tấm đứng đầu thế giới, cao hơn giá gạo cùng chủng loại của Thái Lan và Ấn Độ”.

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), tính đến ngày 15/2/2023, giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam đạt 463 USD/tấn (FOB), tăng 16,3% so với cùng kỳ năm 2023, bằng với giá gạo của Thái Lan cùng chủng loại, tăng 20 – 23 USD/tấn so với gạo 5% tấm của Ấn Độ, Pakistan.

Thị trường xuất khẩu gạo trong năm 2022 ghi nhận sự tăng trưởng ở tất cả thị trường. Xuất khẩu gạo sang thị trường EU ghi nhận sự tăng trưởng vượt bậc ở mức 94.510 tấn gạo và vượt hạn ngạch 80.000 tấn gạo hàng năm mà EU dành cho Việt Nam theo cam kết từ Hiệp định EVFTA. Điều này cho thấy chất lượng gạo xuất khẩu tiếp tục được khẳng định.

Theo ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương, mỗi năm Việt Nam sản xuất từ 22 – 23 triệu tấn gạo, trong đó xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 15%.

Vì vậy, dư địa để gia tăng sản lượng xuất khẩu là khá lớn. Đặc biệt, với việc sản xuất hơn 80% dòng gạo thơm, chất lượng cao đang mở ra cơ hội để ngành hàng này phát triển và vươn xa.

Thực tế đã chứng minh, trong năm 2022 với muôn vàn khó khăn, ngành lúa gạo vẫn luôn giữ được đà tăng trưởng tốt. Đặc biệt, xuất khẩu gạo đang tăng cả về giá và số lượng, thậm chí có những thời điểm, gạo của Việt Nam có giá trị cao hàng đầu thế giới. Kết quả này đã thể hiện hướng đi đúng trong việc chuyển hướng tăng cường sản xuất gạo chất lượng cao của ngành nông nghiệp.

Năm 2023, Bộ Công Thương cũng dự báo xuất khẩu gạo Việt Nam đạt khoảng 7 triệu tấn, trị giá gần 4 tỷ USD.

 

Nguồn: congthuong

Tổng cục Hải quan tăng cường giám sát hàng quá cảnh, tạm nhập tái xuất

Thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, giám sát hải quan

Để đảm bảo việc xuất khẩu, tái xuất hàng hóa đúng quy định, Tổng cục Hải quan yêu cầu Cục Hải quan các tỉnh, thành phố quán triệt cán bộ công chức hải quan tại các Chi cục Hải quan cửa khẩu đảm bảo thực hiện đúng chỉ đạo của Tổng cục Hải quan.

Ngành hải quan quyết liệt chống buôn lậu, gian lận thương mại

Cụ thể, thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa kinh doanh quá cảnh theo đúng quy định tại các Hiệp định quá cảnh hàng hóa giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Campuchia, Lào, Trung Quốc và các văn bản quy phạm pháp luật.

Về cửa khẩu xuất đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất, hàng hóa quá cảnh và hàng hóa gửi kho ngoại quan, Tổng cục Hải quan chỉ đạo, đối với hàng hóa tái xuất, hàng hóa vận chuyển từ kho ngoại quan đến cửa khẩu xuất để xuất đi nước ngoài qua cửa khẩu biên giới phải được tái xuất qua cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính theo đúng quy định.

Hàng hóa chỉ được xuất khẩu, tái xuất theo đúng địa điểm xuất hàng, cửa khẩu xuất đã được đăng ký trên tờ khai hải quan, không cho phép thực hiện việc chia nhỏ container, chia nhỏ lô hàng để xuất qua các lối mòn, lối mở, mốc biên giới.

Công chức hải quan chỉ xác nhận hàng hóa qua khu vực giám sát sau khi toàn bộ lô hàng đã được vận chuyển qua đúng cửa khẩu xuất đã đăng ký với cơ quan Hải quan.

Đối với hàng hóa tái xuất, xuất khẩu phải được vận chuyển trên các phương tiện đáp ứng điều kiện niêm phong, kiểm tra, giám sát hải quan. Cụ thể, đối với container, không bị rách vỡ, thủng; tay khóa, chốt có lỗ gắn được seal của cơ quan Hải quan; bản lề, tại container đúng theo tiêu chuẩn đã được cơ quan có thẩm quyền chứng nhận. Đối với các xe thùng, thùng chứa hàng hóa không bị thủng, rách vỡ; tay khóa, chốt có lỗ đảm bảo gắn được seal của cơ quan Hải quan.

Trường hợp container/thùng chứa đựng hàng hóa không đáp ứng điều kiện để niêm phong, giám sát hải quan, Chi cục Hải quan nơi hàng hóa vận chuyển đi không cho phép bốc xếp hàng hóa lên phương tiện đó và không xác nhận đủ điều kiện qua khu vực giám sát hải quan.

Làm rõ các dấu hiệu tiếp tay, bảo kê cho hàng hóa

Việc vận chuyển hàng hóa quá cảnh, hàng hóa từ kho ngoại quan hoặc từ địa điểm lưu giữ đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất đến cửa khẩu xuất phải được giám sát bằng seal định vị điện tử.

Trong quá trình theo dõi, giám sát qua hệ thống nếu phát hiện phương tiện chứa hàng, niêm phong hải quan có dấu hiệu không đảm bảo nguyên trạng, phương tiện vận chuyển đi không đúng lộ trình, thời gian, tắt tín hiệu định vị thì thực hiện kiểm tra thực tế hàng hóa ngay tại cửa khẩu xuất.

Bên cạnh đó, Tổng cục Hải quan yêu cầu Cục Hải quan các tỉnh, thành phố, đặc biệt là các địa phương có cửa khẩu biên giới đất liền chỉ đạo các Chi cục Hải quan cửa khẩu và các lực lượng kiểm soát hải quan, trực ban, thanh tra nội bộ tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện thủ tục hải quan, giám sát hải quan tại các khu vực lối mòn, lối mở, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý đối với hành vi xuất khẩu, tái xuất hàng hóa không đúng cửa khẩu quy định.

Cục Điều tra chống buôn lậu, Cục Giám sát quản lý về hải quan và Trực ban Tổng cục cũng được giao tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát, tuần tra, kiểm soát trực tiếp hoặc thông qua hệ thống quản lý seal định vị điện tử, camera giám sát lắp đặt tại các khu vực cửa khẩu.

Trong trường hợp phát hiện vi phạm thì ngoài việc xử lý theo quy định của pháp luật, cần làm rõ các dấu hiệu tiếp tay, bảo kê cho hàng hóa vận chuyển qua các khu vực này của công chức hải quan cũng như các lực lượng chức năng khác.

Đặc biệt, Tổng cục Hải quan sẽ xem xét kiểm điểm trách nhiệm, xử lý người đứng đầu đơn vị khi để xảy ra các hành vi vi phạm trên địa bàn quản lý.

 

Nguồn: congthuong

Giám sát, kiểm tra doanh nghiệp xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc

Công văn nêu rõ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận được thông báo của Cục An toàn thực phẩm xuất nhập khẩu, Tổng cục Hải quan Trung Quốc yêu cầu kiểm tra theo hình thức trực tuyến 5 doanh nghiệp chế biến nước ép trái cây đông lạnh có lô hàng vi phạm quy định an toàn thực phẩm trong số 12 doanh nghiệp phía Trung Quốc đưa ra.

Ảnh minh họa

Theo các Lệnh 248, 249 của Trung Quốc (GACC), sản phẩm nước ép trái cây không nằm trong Danh mục 18 nhóm sản phẩm phải đăng ký qua cơ quan thẩm quyền Việt Nam nên các doanh nghiệp chủ động đăng ký trực tiếp qua CIFER với Tổng cục Hải Quan Trung Quốc.

Tuy nhiên, quy định tại Điều 12 Lệnh 248 “Quy định về Quản lý đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nước ngoài nhập khẩu vào Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” của Tổng cục Hải quan Trung Quốc: Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia (khu vực) nơi đặt trụ sở hoặc doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nước ngoài nhập khẩu phải chịu trách nhiệm về tính xác thực, đầy đủ và hợp pháp của các tài liệu được nộp.

Qua rà soát 12 doanh nghiệp cho thấy, một số doanh nghiệp có thông tin đăng ký với phía Trung Quốc không chính xác. Một số doanh nghiệp chỉ có hoạt động thương mại, không có hoạt động sản xuất, một số doanh nghiệp có lô hàng bị cảnh báo vi phạm về an toàn thực phẩm…

Để chủ động trong đàm phán mở cửa thị trường và phối hợp với phía Trung Quốc xử lý các vướng mắc, thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản sang Trung Quốc đối với các doanh nghiệp sản xuất chế biến sản phẩm nước ép trái cây đông lạnh nói riêng và các doanh nghiệp sản xuất chế biến nông sản nói chung… Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị các đơn vị chức năng thống kê, cập nhật đầy đủ danh sách các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý theo quy định tại Điều 12 Thông tư số 38/2018/BNN-PTNT ngày 25/12/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Trong trường hợp cần thiết, phối hợp với cơ quan quản lý, cấp đăng kinh doanh để đảm bảo cập nhật, thống kê đầy đủ và chính xác thông tin đối với các cơ sở thuộc phạm vi quản lý của địa phương.

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, cập nhật các quy định của pháp luật về đảm bảo an toàn thực phẩm, sản xuất thực phẩm an toàn theo quy định của Việt Nam và các yêu cầu tại các Lệnh 248, 249 trong xuất khẩu nông lâm thủy sản vào Trung Quốc.

Trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu vào Trung Quốc sản phẩm ngoài Danh mục 18 nhóm sản phẩm phải đăng ký qua cơ quan thẩm quyền Việt Nam thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, yêu cầu các doanh nghiệp bên cạnh việc đăng ký trực tiếp với Tổng cục Hải quan Trung Quốc, đồng thời gửi hồ sơ đăng ký thông tin với cơ quan quản lý địa phương và Bộ (qua Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản) để phối hợp xử lý các vướng mắc theo yêu cầu của cơ quan thẩm quyền Trung Quốc.

Giám sát, kiểm tra, thanh tra chặt chẽ (hậu kiểm) đối với các doanh nghiệp trong việc tuân thủ và duy trì đầy đủ các quy định về đảm bảo an toàn thực phẩm của Việt Nam và Trung Quốc; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các vi phạm về an toàn thực phẩm theo quy định hiện hành.

Trong quá trình triển khai nếu có khó khăn, vướng mắc đề nghị địa phương có văn bản thông báo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (qua Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản) để phối hợp triển khai.

 

Nguồn: congthuong

Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ lớn nhất của sản phẩm sắn Việt Nam

Trung Quốc thị trường tiêu thụ lớn nhất của sản phẩm sắn Việt Nam

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu Tổng cục Thống kê cho biết, trong tháng 2/2023, xuất khẩu sắn và sản phẩm sắn của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đạt 436,9 nghìn tấn, trị giá 161,98 triệu USD, tăng 95,4% về lượng và tăng 86,4% về trị giá tháng 01/2023; so với tháng 02/2022 tăng 88,7% về lượng và tăng 71,9% về trị giá.

Tháng 2/2023, giá xuất khẩu sắn sang thị trường Trung Quốc tăng 8,2%

Trong tháng 2/2023, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn sang thị trường Trung Quốc chiếm 93,36% tổng lượng sắn và các sản phẩm từ sắn xuất khẩu của cả nước. Với con số này, Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ sắn và các sản phẩm từ sắn lớn nhất của Việt Nam.

Giá xuất khẩu bình quân sắn và các sản phẩm từ sắn sang thị trường Trung Quốc trong tháng 2/2023 ở mức 370,8 USD/tấn, giảm 4,6% so với tháng 01/2023, nhưng tăng 8,2% so với tháng 02/2022.

Tính chung, trong 2 tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 659,84 nghìn tấn sắn và các sản phẩm từ sắn, trị giá 248,14 triệu USD, tăng 37,1% về lượng và tăng 23,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn sang thị trường Trung Quốc chiếm 93,8% tổng lượng sắn và các sản phẩm từ sắn xuất khẩu của cả nước trong 2 tháng đầu năm 2023.

Trung Quốc tăng mua sắn và các sản phẩm từ sắn từ Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2023, sau khi nước này gỡ bỏ các biện pháp kiểm dịch Covid-19. Các chủng loại sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chủ yếu vẫn là tinh bột sắn và sắn lát khô.

Năm 2023, trong bối cảnh lạm phát toàn cầu tăng, Trung Quốc sẽ là điểm đến tiềm năng nhất cho sắn và các sản phẩm sắn của Việt Nam nhờ nhu cầu cao, vị trí địa lý gần, chi phí logistics thấp hơn so với xuất khẩu tới các thị trường khác.

Trong khi đó, nguồn cung và giá của ngô và lúa mì đều bị ảnh hưởng trực tiếp bởi tình hình chiến sự ở Ukraina. Do đó, nhu cầu về sắn trên thị trường thế giới sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Dự báo tháng tới, nhu cầu mua sắn và tinh bột sắn từ Trung Quốc vẫn cao do thị trường này tăng cường dự trữ lương thực, ngũ cốc cho tiêu dùng. Ngoài ra, các ngành công nghiệp năng lượng và thức ăn chăn nuôi cũng chuyển sang nhập khẩu các sản phẩm từ sắn để thay thế, dẫn đến tăng nhu cầu đối với sắn. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sắn và tinh bột sắn sang thị trường này.

Giá sắn tươi trong nước tiếp tục đứng ở mức cao

Theo Hiệp hội sắn Việt Nam, giá sắn tươi tại miền Trung – Tây Nguyên tiếp tục đứng ở mức cao trong bối cảnh nguồn cung sắn vụ cuối khan hiếm, trong khi các nhà máy đều muốn tăng công suất hoạt động trước khi nghỉ kết thúc vụ.

Năng suất và chất lượng sắn vụ tới tại Tây Ninh nhiều khả năng bị sụt giảm nghiêm trọng do bệnh khảm lá. Hiện tại nhiều nhà máy đã phải nghỉ vụ do giá sắn nguyên liệu tăng cao và nguồn nguyên liệu cuối vụ hết sớm hơn cùng kỳ niên vụ 2021/22.

Báo giá xuất khẩu tinh bột sắn Việt Nam của nhiều nhà máy cao hơn mức giá khách hàng Trung Quốc chấp nhận mua được. Thời điểm hiện tại, các nhà máy Việt Nam tập trung bán nội địa với giá cao hơn giá xuất khẩu. Trong khi đó, sản lượng sắn lát thu mua về các kho trữ hàng vụ 2022/23 giảm mạnh so với vụ 2021/22. Giá chấp nhận mua của khách hàng Trung Quốc thấp hơn so với giá chào bán của đơn vị xuất khẩu sắn lát Việt Nam tới vài chục USD/tấn.

Giá sắn tươi tại miền Trung – Tây Nguyên tiếp tục xu hướng tăng nhẹ, trong bối cảnh nguồn cung nguyên liệu cuối vụ đạt thấp.

Hiện giá sắn tươi thu mua tại Tây Ninh dao động ở mức 3.400 – 4.000 đồng/kg, tăng 100 – 300 đồng/kg so với 10 ngày trước đó. Tại Đắk Lắk, giá dao động ở mức 2.900 – 3.000 đồng/kg, tăng 50 đồng/kg so với 10 ngày trước đó. Tại Gia Lai, giá dao động ở mức 2.950 – 3.100 đồng/kg, ổn định so với 10 ngày trước đó. Tại miền Trung, giá sắn tươi dao động ở mức 2.650 – 3.000 đồng/kg, tăng 250 đồng/kg so với 10 ngày trước đó.

Tại miền Bắc, giá sắn tươi dao động ở mức 2.400 – 2.600 đồng/kg, tăng 150 đồng/kg so với 10 ngày trước đó. Các nhà máy Việt Nam đang chào bán tinh bột sắn với mức giá trong khoảng 500 – 525 USD/tấn – FOB cảng TP. Hồ Chí Minh, tăng 20 USD/tấn so với 10 ngày trước đó.

Giá tinh bột sắn giao tại Móng Cái và Lạng Sơn ở mức 3.400 – 3.650 CNY/tấn, tăng 50 CNY/tấn so với 10 ngày trước đó. Trong khi đó, giá xuất khẩu sắt lát sang thị trường Trung Quốc khoảng 305 USD/tấn – FOB Quy Nhơn; giá xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc khoảng 355 USD/ tấn – FOB Quy Nhơn, ổn định so với 10 ngày trước đó.

 

Nguồn: congthuong

EU điều chỉnh quy định về nhập khẩu nông sản và sản phẩm có nguồn gốc từ động vật

Thương vụ Việt Nam tại Thuỵ Điển, kiêm nhiệm thị trường Bắc Âu thông tin, ngày 2/2/2023, Uỷ ban Châu Âu đã ban hành Quy định số (EU) 2023/334 về việc sửa đổi Phụ lục II và V của Quy định (EC) số 396/2005 về mức dư lượng tối đa đối với Clothianidin và Thiamethoxam trong và trên một số sản phẩm nhất định.

Theo đó, các sản phẩm trái cây tươi hoặc đông lạnh; các loại hạt; các sản phẩm rau tươi và đông lạnh; các sản phẩm là hạt dầu và quả có dầu sẽ có mức dư lượng tối đa Clothianidin và Thiamethoxam là 0,01 mg/kg.

Riêng các loại thảo mộc và hoa ăn được là 0,02 mg/kg; Các sản phẩm là trà, cà phê, thảo dược và gia vị là 0,05 mg/kg, riêng hạt Cacao là 0,02 mg/kg.

Đối với các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật (động vật trên cạn) sẽ có dư lượng tối đa đối là 0,02 mg/kg. Riêng sữa của các loài động vật, trứng các loại, các sản phẩm có nguồn gốc từ các loài lưỡng cư bò sát, động vật không xương sống trên cạn, động vật có xương sống sống trên cạn hoang dã là 0,01 mg/kg.

Quy định sẽ được áp dụng từ ngày 7/3/2026. Thương vụ khuyến cáo, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm trên sang EU nói chung và các nước Bắc Âu nói riêng nên có những sự chuẩn bị, điều chỉnh phù hợp khi xuất khẩu hàng hoá sang EU và Bắc Âu.

Nguồn: congthuong

Đến giữa tháng 3, cán cân thương mại thặng dư gần 3 tỷ USD

Trong đó, kỳ 1 tháng 3 (1-15/3) tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 27,15 tỷ USD, giảm 11% so với cùng kỳ năm 2022.

Về cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa, kim ngạch xuất khẩu đạt 13,33 tỷ USD, giảm 13% so với cùng kỳ năm ngoái. Nửa đầu tháng 3 có 4 mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD. Đứng đầu là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất với 2,22 tỷ USD. Tiếp đến là điện thoại và linh kiện đạt 1,75 tỷ USD; máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác đạt 1,57 tỷ USD; hàng dệt may đạt 1,23 tỷ USD.

Kim ngạch nhập khẩu trong nửa đầu tháng 3 đạt 13,82 tỷ USD, giảm 9% so với cùng kỳ năm 2022. Nửa đầu tháng 3, có 2 mặt hàng nhập khẩu trên 1 tỷ USD, gồm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện với 3,23 tỷ USD; máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng đạt 1,71 tỷ USD.

Kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt trên 1 tỷ USD

Tính chung từ đầu năm đến 15/3, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt gần 123 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt gần 63 tỷ USD, nhập khẩu đạt 60 tỷ USD, cán cân thương mại thặng dư gần 3 tỷ USD. Thặng dư đạt mức cao là một trong những điểm sáng quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu.

Từ đầu năm đến nay, xuất nhập khẩu hàng hóa gặp nhiều khó khăn cả về thị trường và đơn hàng. Trong bối cảnh đó, Bộ Công Thương đã và đang triển khai nhiều giải pháp nhằm tăng cường xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu.

Mới đây nhất, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Quyết định số 165/QĐ-TTg ngày 28/02/2023 phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương đến năm 2030. Theo đó, Quyết định đặt ra mục tiêu duy trì thặng dư cán cân thương mại với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn cao hơn nhập khẩu và tăng bình quân khoảng 6 – 8%/năm.

Đề án cũng đặt mục tiêu phát triển nhanh, bền vững thị trường trong nước kết nối liền mạch với thị trường xuất nhập khẩu. Phát huy thế mạnh của thị trường trong nước để củng cố nội lực là yếu tố quyết định gắn với mở rộng thị trường bên ngoài, trong đó, xác định thương mại số, thương mại điện tử là động lực tăng trưởng quan trọng của kinh tế số.

Bên cạnh đó, đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu, chú trọng phát triển xuất khẩu qua thương mại điện tử xuyên biên giới, hệ thống phân phối nước ngoài và đẩy mạnh phát triển thương hiệu hàng Việt Nam, gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng chế biến sâu, công nghệ cao và tỷ lệ nội địa hóa lớn; phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới, tạo sự đột phá như các sản phẩm Halal sang các thị trường Hồi giáo, sản phẩm Kosher sang thị trường Do Thái, hàng hóa môi trường và các bon thấp…

Thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ hệ thống phân phối sang các loại hình phân phối hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa hệ thống phân phối ở vùng nông thôn, miền núi; Phát triển thương mại điện tử thành một kênh phân phối quan trọng, hỗ trợ tích cực trong tiêu thụ hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa nông sản, hàng công nghiệp tiêu dùng; phát triển các trung tâm tiêu dùng mới. Số hóa các hoạt động xúc tiến thương mại.

 

Nguồn: congthuong

Cửa khẩu quốc tế Móng Cái chính thức là cửa khẩu nhập khẩu lương thực vào Quảng Tây (Trung Quốc)

Thông tin từ Vụ Thị trường châu Á – châu Phi (Bộ Công Thương), Hải quan Trung Quốc vừa công bố danh sách cập nhật các địa điểm đủ điều kiện nhập khẩu lương thực theo quy định của nước này.

Đáng chú ý, cửa khẩu Đông Hưng (cầu Bắc Luân 2 – phía Việt Nam là cửa khẩu Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) chính thức được Tổng Cục Hải quan Trung Quốc nghiệm thu và trở thành địa điểm đủ điều kiện nhập khẩu lương thực, đưa cửa khẩu này cùng cửa khẩu Hữu Nghị Quan (phía Việt Nam là cửa khẩu Hữu Nghị, tỉnh Lạng Sơn) trở thành hai cửa khẩu đường bộ được phép nhập khẩu lương thực của Quảng Tây, Trung Quốc.

Hàng hóa lưu thông tại Cửa khẩu cầu Bắc Luân II

Địa điểm giám sát nhập khẩu lương thực được chỉ định tại khu vực cửa khẩu Đông Hưng gồm: Nơi kiểm hóa chuyên dụng đối với lương thực nhập khẩu, phòng kỹ thuật giám sát, quản lý của hải quan, kho lấy mẫu chuyên dụng và khu vực xử lý kiểm dịch với 4 điểm kiểm hóa khép kín, kho chuyên dụng có diện tích 400 m2.

Năng lực giám sát, quản lý đối lương thực nhập khẩu qua khu vực này đạt tối đa 200 nghìn tấn/năm.

Sau khi đưa vào hoạt động, cửa khẩu Đông Hưng (phía Việt Nam là cầu Bắc Luân 2 – cửa khẩu Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) sẽ trở thành một trong những cửa khẩu nhập khẩu lương thực từ các nước ASEAN.

Nguồn: congthuong

Hai dòng xe ô tô nguyên chiếc có lượng nhập khẩu nhiều nhất về Việt Nam

Theo Tổng cục Hải quan, nửa đầu tháng 3/2023 (1-15/3), hai dòng xe ô tô nguyên chiếc nhập khẩu chủ yếu về Việt Nam là ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống và ô tô tải.

Theo Tổng cục Hải quan, lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu tiếp tục tăng mạnh. Cụ thể, nửa đầu tháng 3 (1-15/3), cả nước nhập khẩu 7.285 xe, tổng kim ngạch đạt 161,43 triệu USD.

Việt Nam nhập khẩu ô tô nhiều nhất từ thị trường Thái Lan, Indonesia

2 dòng xe nhập khẩu chủ yếu là ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống và ô tô tải. Trong đó, ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống có 5.885 xe, tổng kim ngạch đạt gần 118 triệu USD; ô tô tải có 1.088 xe, tổng kim ngạch đạt gần 30,5 triệu USD.

Tính chung từ đầu năm đến 15/3, cả nước nhập khẩu 34.064 ô tô nguyên chiếc, tổng kim ngạch đạt 731,5 triệu USD, tăng tới 72,25% về lượng và tăng 55,72% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.

Về thị trường nhập khẩu (cập nhật hết tháng 2 của Tổng cục Hải quan), Thái Lan tiếp tục là thị trường nhập khẩu ô tô lớn nhất của Việt Nam với 12.759 xe, kim ngạch đạt 251,65 triệu USD; Indonesia xếp vị trí thứ 2 với 10.976 xe, kim ngạch đạt 152,34 triệu USD; trong khi Trung Quốc đứng thứ 3 với 1.074 xe, tổng kim ngạch đạt gần 41 triệu USD.

Trước đó, năm 2022 là năm có lượng ô tô nhập khẩu nhiều nhất từ trước đến nay, vượt khá xa kết quả của năm có kỷ lục trước đó là năm 2021 (năm 2021 gần 160.000 xe). Indonesia và Thái Lan cũng là 2 thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Trong đó, Indonesia vượt Thái Lan về lượng xe nhập khẩu, tuy nhiên “xứ sở chùa vàng” vẫn đứng số 1 về kim ngạch.

Cụ thể, năm ngoái, Việt Nam nhập khẩu từ Indonesia 72.671 xe, kim ngạch hơn 1,05 tỷ USD; trong khi kết quả của Thái Lan là 72.032 xe, kim ngạch 1,43 tỷ USD. Vị trí thứ 3 là Trung Quốc với 17.340 xe, kim ngạch 714,5 triệu USD.

Với 162.043 xe, riêng 3 thị trường nêu trên chiếm đến 93,4% lượng xe nhập khẩu cả nước trong năm 2022, thậm chí vượt cả tổng lượng xe nhập về của năm 2021.

Exit mobile version