Thống kê từ Sở Giao dịch hàng hoá Việt Nam (MXV), kết thúc tuần giao dịch 2 – 8/10, thị trường vẫn dành nhiều sự chú ý đến giá cà phê, khi mặt hàng này tiếp tục suy yếu. Trong đó, giá Robusta giảm 4,18% và giá Arabica giảm nhẹ hơn, với 0,07% so với tham chiếu.
Giá cà phê suy yếu trong tuần vừa qua
Brazil đẩy mạnh xuất khẩu cùng với việc Việt Nam đang thu hoạch vụ mới là nguyên nhân gây áp lực lên giá. Nông dân tại Việt Nam đã bắt đầu thu hoạch cà phê chín sớm niên vụ 2023/2024. Điều này có thể giúp gia tăng nguồn cung cho hoạt động xuất khẩu trong thời gian tới.
Theo Chính phủ Brazil, trong tháng 9, nước này đã xuất khẩu 177.685 tấn cà phê nhân (2,69 triệu bao loại 60kg), tăng 10,5% so với mức 169.678 tấn trong cùng kỳ năm 2022. Tuy nhiên, mức cà phê xuất khẩu chững lại so với mức 197.471 tấn đã xuất đi vào tháng 8/2023.
Bên cạnh đó, tỷ giá USD/Brazil Real tiếp tục tăng thêm hơn 2% trong tuần vừa qua. Chênh lệch tỷ giá gia tăng đã kích thích nhu cầu bán hàng của nông dân Brazil do thu về nhiều nội tệ hơn.
Trên thị trường nội địa, ghi nhận đến cuối tuần trước (ngày 7/10), giá cà phê nhân xô tại Tây Nguyên và các tỉnh Nam Bộ được thu mua quanh mức 63.700 – 64.300 đồng/kg. Chỉ sau 1 tuần, giá cà phê trong nước đã giảm mạnh 2.200 – 2.400 đồng/kg.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam được lợi về giá
Đối với giá cà phê xuất khẩu, tháng 9/2023, giá cà phê Robusta biến động không đồng nhất so với cuối tháng 8/2023; cà phê Arabica giảm mạnh. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 9/2023 ước tính đạt 65 nghìn tấn, trị giá 205 triệu USD, giảm 23,2% về lượng và giảm 20,8% về trị giá so với tháng 8/2023; giảm 32,7% về lượng và giảm 12,8% về trị giá so với tháng 9/2022.
Tính chung 9 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam ước tính đạt 1,266 triệu tấn, trị giá 3,16 tỷ USD, giảm 7,3% về lượng nhưng tăng 1,9% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Về giá, ước tính, tháng 9/2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt mức 3.151 USD/tấn, tăng 3,2% so với tháng 8/2023 và tăng 29,6% so với tháng 9/2022. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam ước đạt mức 2.499 USD/tấn, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm 2022.
Đối với cơ cấu chủng loại, tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê Robusta và Arabica giảm so với cùng kỳ năm 2022, nhưng xuất khẩu cà phê Excelsa và chế biến tăng.
Sản lượng cà phê năm nay ước giảm 10-15% do thời tiết không thuận. Tuy nhiên, xuất khẩu cà phê từ nay đến cuối năm vẫn khả quan do nhu cầu tăng cao hơn so với nguồn cung.
Dù kim ngạch đạt mức cao là kết quả đáng mừng đối với ngành cà phê, nhưng MXV phân tích, nhìn lại hoạt động xuất khẩu trong hai năm qua thì khả năng có thể duy trì giá trị xuất khẩu ở mức cao trong dài hạn là điều chưa chắc chắn. Bởi có thể thấy rằng yếu tố chính giúp kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 2023 vượt 4 tỷ USD là nhờ vào giá tăng trong bối cảnh nguồn cung thiếu hụt.
Trước đó, năm 2022, lần đầu tiên Việt Nam thu về hơn 4 tỷ USD từ hoạt động xuất khẩu cà phê là nhờ lượng cà phê xuất mức cao thứ ba trong 10 năm, với 1,78 triệu tấn. Chính vì đẩy mạnh lượng cà phê xuất khẩu trong năm 2022 nên trữ lượng xuất khẩu dành cho năm 2023 thấp, bên cạnh sản lượng giảm 10-15% trong niên vụ 2022/2023.
Tính toán từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, lượng cà phê xuất khẩu cả năm 2023 sẽ đạt khoảng 1,72 triệu tấn, thu về 4,2 tỷ USD.
Số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho biết, xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện trong tháng 8/2023 đã thu về hơn 5,1 tỷ USD, tăng 15,7% so với tháng 7/2023. Tính chung trong 8 tháng đầu năm, xuất khẩu mặt hàng này thu về hơn 33,8 tỷ USD, giảm 15,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Tính đến hết tháng 8, những quốc gia đang ghi nhận trị giá xuất khẩu điện thoại và linh kiện đạt trên 1 tỷ USD lần lượt là Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, UAE và Áo.
Xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện trong tháng 8/2023 thu về hơn 5,1 tỷ USD
Đây là nhóm hàng đứng thứ 2 về kim ngạch trong số các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam (đứng sau nhóm hàng máy tính điện tử và linh kiện), chiếm 14,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước.
Riêng tháng 8/2023 xuất khẩu điện thoại và linh kiện đạt gần 5,15 tỷ USD, tăng 15,7% so với tháng 7/2023 nhưng giảm 15,5% so với tháng 8/2022.
Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của điện thoại và linh kiện của Việt Nam với thị phần 26,2%. Cụ thể, trong tháng 8, Trung Quốc đã chi 1,68 tỷ USD để nhập khẩu mặt hàng này từ Việt Nam, tăng mạnh 111% so với tháng 7/2023 và tăng 7,4% so với tháng 8/2022.
Tính chung trong 8 tháng đầu năm, Việt Nam thu về 8,8 tỷ USD từ xuất khẩu điện thoại và linh kiện sang Trung Quốc, giảm nhẹ 1% so với cùng kỳ năm 2022.
Thị trường lớn thứ 2 là Mỹ với tỷ trọng 17%. Cụ thể, xuất khẩu mặt hàng này sang Mỹ đạt kim ngạch hơn 728 triệu USD, giảm 11% so với tháng 7/2023. Trong 8 tháng đầu năm, xuất khẩu điện thoại và linh kiện sang Mỹ thu về hơn 5,6 tỷ USD, giảm 39% so với cùng kỳ năm 2022.
Tiếp đến thị trường Hàn Quốc chiếm tỷ trọng 7,16%. 8 tháng đầu năm, Việt Nam thu về từ Hàn Quốc 2,4 tỷ USD nhờ xuất khẩu điện thoại và linh kiện, giảm 37,4% so với cùng kỳ năm 2022. Riêng trong tháng 8 thu về hơn 396 triệu USD, giảm 8% so với cùng kỳ.
UAE là thị trường xuất khẩu điện thoại và linh kiện lớn thứ 4 của Việt Nam với thị phần 4,15%. Tháng 8/2023, giá trị xuất khẩu sang thị trường U.A.E đạt 215 triệu USD, tăng 32,9% so với tháng 7/2023. 8 tháng đầu năm, Việt Nam thu về gần 1,41 tỷ USD, giảm 19,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Ngoài ra, Áo cũng là thị trường xuất khẩu lớn của điện thoại và linh kiện của Việt Nam. Trong tháng 8, trị giá xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện sang Áo đạt hơn 179 triệu USD, giảm nhẹ 0,3% so với tháng 7/2023 và đạt 1,34 tỷ USD trong 8 tháng đầu năm, tăng 3,75% và chiếm tỷ trọng 3,96%.
Nhìn chung, xuất khẩu điện thoại và linh kiện sang hầu hết các thị trường trọng điểm trong 8 tháng năm 2023 sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm 2022.
Theo đó, lô hàng của Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu 2-9 Đắk Lắk (Simexco Daklak) xuất khẩu cho một khách hàng tại Nhật Bản.
Trước đó, vào năm 2021, doanh nghiệp này cũng đã xuất nguyên container hàng đặc sản đi thị trường châu Âu.
Vùng trồng cà phê đặc sản xuất khẩu của Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu 2-9 Đắk Lắk (Simexco Daklak). Ảnh do doanh nghiệp cung cấp
Cà phê đặc sản là một loại cà phê đến từ các vùng trồng có điều kiện tự nhiên đặc biệt. Quy trình chăm sóc, thu hoạch và chế biến của cà phê đặc sản tuân theo các tiêu chuẩn và quy trình đánh giá của Hiệp hội Cà phê đặc sản thế giới (SCA) và Viện Chất lượng cà phê thế giới (CQI). Để được coi là cà phê đặc sản, sản phẩm này phải đạt từ 80 điểm trở lên trong quá trình đánh giá.
Cà phê đặc sản trong lô hàng này được trồng tại Hợp tác xã Eatan – Krongnang, với độ cao trên 800m so với mặt nước biển. Vùng trồng này có nhiệt độ giữa ngày và đêm chênh lệch lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho cây cà phê phát triển và cho ra một loại cà phê chất lượng vượt trội.
Sau khi được hái chín bằng tay với tỷ lệ 100%, cà phê được chế biến, sau đó được rửa sạch qua hai lần nước và sẽ được kiểm soát quá trình lên men nguyên trái với phương pháp chế biến tự nhiên Anaerobic Natural, từ đó tạo ra những hương vị đặc trưng và độc đáo cho cà phê.
Cuối cùng, cà phê sẽ trải qua giai đoạn phơi chậm để loại bỏ độ ẩm và đạt được độ ổn định cần thiết. Để bảo quản hương vị lâu hơn, cà phê sau quá trình chế biến sẽ được bảo quản trong kho mát. Tất cả quá trình trên nhằm tạo ra những hương vị mới và độc đáo cho cà phê đặc sản, đồng thời giữ được chất lượng và hương vị của cà phê trong thời gian dài.
Ông Lê Đức Huy – Tổng giám đốc Simexco Daklak – cho hay, khách hàng mua cà phê đặc sản thường rất khắt khe và đòi hỏi sự ổn định chất lượng cho cả lô hàng. Để đáp ứng được yêu cầu này, Simexco đã dành nhiều năm để khách hàng có thể thử nghiệm và duyệt mẫu trước khi xuất đơn hàng này.
Bên cạnh đó, giá trị của cà phê đặc sản thường cao hơn nhiều lần so với cà phê thương mại. Điều này thể hiện sự độc nhất và phẩm chất vượt trội của sản phẩm trong thời buổi đa dạng các loại mẫu mã hàng hóa trên thị trường cà phê trong nước và quốc tế. Một số sản phẩm cà phê đặc sản thậm chí có giá trị lên đến 310.000 – 430.000 đồng/kg (được định giá trong cuộc đấu giá cà phê đặc sản đầu tiên tại Việt Nam).
“Đối tác Nhật Bản (khách hàng lâu năm của công ty) trước đó chủ yếu mua các mặt hàng cà nhân xanh thương mại (Arabica và Robusta), nhưng sau khoảng thời gian dài tìm hiểu, khảo sát và kiểm tra chất lượng sản phẩm của Simexco Daklak, khi nhận thấy đây là một mặt hàng mới đầy tiềm năng phát triển thì họ quyết định đặt hàng để mở rộng thêm tại thị trường trong nước”, ông Lê Đức Huy chia sẻ.
Cà phê đặc sản của Việt Nam chuẩn bị xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Ảnh do doanh nghiệp cung cấp
Nhật Bản là thị trường lớn của cà phê Việt Nam nói chung và Simexco nói riêng. Cụ thể lượng cà phê mà Simexco xuất sang thị trường Nhật Bản niên vụ 2019 – 2020 đạt 15.425 tấn; niên vụ 2020 – 2021 đạt 15.345 tấn; niên vụ 2021 – 2022 đạt 24.160 tấn.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cho biết, 5 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản đạt 48,68 nghìn tấn, trị giá 128,57 triệu USD, giảm 7,4% về lượng và giảm 2,7% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái; giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam sang Nhật Bản ở mức 2.641 USD/tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong đó, 5 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê Robusta và Arabica của Việt Nam sang Nhật Bản giảm; ngược lại, xuất khẩu cà phê chế biến sang Nhật Bản tăng.
Trong thời điểm nền kinh tế toàn cầu tiến vào giai đoạn suy thoái thì việc xuất khẩu được lô hàng lớn lần này mang ý nghĩa rất lớn. Theo đó, việc này không chỉ nâng cao vị thế của ngành cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới, đây còn là minh chứng cho việc cà phê Robusta Việt Nam hoàn toàn đáp ứng được những yêu cầu khó và khắt khe của mọi khách hàng trên toàn thế giới.
Đồng thời, việc sản xuất và tiêu thụ cà phê đặc sản sẽ đem đến giá trị gia tăng cao, giúp thay đổi hướng sản xuất của nông dân và tạo ra cơ hội thu nhập bền vững.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thanh Hóa cho biết, chiều ngày 13/6, hơn 1 tấn vải không hạt đầu tiên được Công ty TNHH Nông nghiệp công nghệ cao Hồ Gươm – Sông Âm trồng tại Thanh Hóa đã được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và Vương quốc Anh.
Việc xuất khẩu hơn 1 tấn vải không hạt sang thị trường Nhật Bản và Vương quốc Anh đã mở ra cơ hội cho trong việc xuất khẩu nhiều sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thanh Hóa, đây là lô hàng đầu tiên được xuất khẩu sang Nhật Bản với khối lượng 500 kg và Vương quốc Anh là 600 kg. Đây là giống vải không hạt được Công ty TNHH Nông nghiệp công nghệ cao Hồ Gươm – Sông Âm phối hợp với Viện Di truyền nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) chọn tạo, trồng thử nghiệm trên địa bàn huyện Ngọc Lặc với diện tích khoảng 30 ha tại xã Nguyệt Ấn, theo quy trình VietGAP, GlobalGAP nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Đại diện Công ty TNHH Nông nghiệp công nghệ cao Hồ Gươm – Sông Âm cho biết, 2023 là năm đầu tiên công ty thu hoạch vải để bán ra thị trường. Ước tính sản lượng thu hoạch khoảng 20 tấn, với giá bán buôn khoảng 170.000 đồng/kg. Hiện nay vải không hạt của công ty đã có mặt tại nhiều thị trường lớn trong nước như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh…
Việc Công ty TNHH Nông nghiệp công nghệ cao Hồ Gươm – Sông Âm xuất khẩu hơn 1 tấn vải không hạt đầu tiên sang thị trường Nhật Bản và Vương quốc Anh đã đánh dấu mốc quan trọng của ngành nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa, khi cây ăn quả được trồng theo quy trình VietGAP, GlobalGAP, mở ra cơ hội cho trong việc xuất khẩu nhiều sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
Kết nối thương mại, logistics Việt Nam – Singapore
Ngày 5/4/2023, tại Singapore, Tọa đàm “Việt Nam – Singapore: Logistics, Thương mại và Kết nối” đã được tổ chức.
Tọa đàm được Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Thương vụ – Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore, Phòng Thương mại và Công nghiệp người Hoa tại Singapore (SCCCI) và Hiệp hội Logistics Singapore (SLA) đồng chủ trì.
Tham gia tọa đàm có ông Mai Phước Dũng, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHXHCN Việt Nam tại Singapore; Ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương; Ông Cao Xuân Thắng – Phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Singapore.
Về phía Singapore có sự tham gia của ông Kho Choon Keng, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp người Hoa tại Singapore, đại diện Hiệp hội Logistics Singapore và gần 100 doanh nghiệp của Việt Nam và Singapore hoạt động trong lĩnh vực logistics, sản xuất, thương mại.
Ông Trần Thanh Hải phát biểu tại tọa đàm
Phát biểu tại tọa đàm, ông Trần Thanh Hải cho biết, những năm qua, quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam – Singapore luôn phát triển tích cực. Giai đoạn 2018-2021, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Singapore tăng trưởng ổn định và trong ASEAN, Singapore là đối tác thương mại lớn thứ 5 của Việt Nam. Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore đạt 9,1 tỷ USD, tăng 11,6% so với năm 2021.
“Việt Nam luôn coi các nước ASEAN, trong đó có Singapore, là một trong những mắt xích quan trọng trong chiến lược phát triển logistics của Việt Nam. Với hệ thống cảng biển lớn và hiện đại bậc nhất thế giới, Singapore luôn nằm trong top những quốc gia phát triển hàng đầu về logistics” – ông Trần Thanh Hải khẳng định.
Về phía Việt Nam, Chính phủ Việt Nam xác định logistics là một ngành dịch vụ quan trọng. Việt Nam xếp thứ 39/160 nước về hiệu quả logistics, đứng thứ 3 trong số các nước ASEAN và đứng đầu trong các thị trường mới nổi. Trong những năm gần đây, ngành logistics Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao từ 14-16%. Số lượng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics hiện có khoảng 30.000 doanh nghiệp, bao gồm dịch vụ kho bãi, giao nhận, vận tải… Cùng với việc gia nhập các Hiệp định thương mại tự do với thị trường rộng lớn, tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu luôn ở mức 02 con số, Việt Nam được đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng cho ngành dịch vụ logistics.
Tọa đàm được tổ chức nhằm mục tiêu tăng cường cơ hội hợp tác và kết nối doanh nghiệp logistics, sản xuất, thương mại Việt Nam – Singapore. Đây là một nội dung hết sức thiết thực đối với quan hệ hợp tác đầu tư, thương mại giữa hai nước, khi nền kinh tế của cả hai nước đã tham gia hội nhập sâu hơn, rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.
Tọa đàm được chia làm 2 phần, phần tham luận của các đại diện tổ chức, doanh nghiệp và kết nối giao thương B2B. Ông Trần Thanh Hải nhận định: “Qua buổi Tọa đàm này, doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội tương tác, cùng thảo luận những những tiềm năng, cơ hội hợp tác giữa hai quốc gia; những xu hướng phát triển của logistics cũng như tình hình, bối cảnh môi trường kinh doanh sắp tới. Đồng thời, chia sẻ những kinh nghiệm kinh doanh, xây dựng chiến lược của doanh nghiệp nhằm mục tiêu hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững. Sự kiện cũng là cơ hội để doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp sản xuất, thương mại được kết nối, tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh, ký kết hợp đồng”.
Tọa đàm là cơ hội tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp hai quốc gia trong lĩnh vực logistics
Những năm qua, quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam – Singapore luôn phát triển tích cực. Đặc biệt, năm 2023 mang nhiều ý nghĩa với việc hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược.
Là hai nền kinh tế mang tính bổ trợ lẫn nhau, Việt Nam và Singapore đang thúc đẩy thực thi các hiệp định thương mại mà hai bên cùng tham gia nhằm tăng cường hợp tác kinh tế song phương. Cùng là thành viên của ASEAN và cùng tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do như CPTPP, RCEP, Việt Nam và Singapore nỗ lực khai thác hiệu quả những lợi ích mà các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mang lại, đóng góp vào quá trình phục hồi kinh tế mỗi nước, cũng như của khu vực sau đại dịch.
Singapore duy trì vị trí dẫn đầu trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đứng thứ hai trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Singapore có 3.095 dự án đầu tư còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt 70,8 tỷ USD. Singapore có nhiều dự án đầu tư tại 51/63 tỉnh, thành phố của Việt Nam, dẫn đầu là Thành phố Hồ Chí Minh, tiếp sau là Hà Nội, Bắc Ninh… Trong khi đó, Việt Nam có 140 dự án đầu tư sang Singapore còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 586 triệu USD. Singapore luôn nằm trong top những quốc gia phát triển hàng đầu về logistics. Chỉ số hiệu quả Logistics (theo công bố của Ngân hàng Thế giới) của Singapore xếp thứ 7/160 quốc gia. Singapore cũng sở hữu hệ thống cảng biển lớn và hiện đại bậc nhất thế giới.
Về phía Việt Nam, Việt Nam hiện có trên 30.000 doanh nghiệp trong các lĩnh vực vận tải, kho bãi, giao nhận, chuyển phát… Chính phủ Việt Nam xác định logistics là ngành dịch vụ quan trọng, đóng vai trò kết nối, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Vì thế, ngành logistics luôn được Việt Nam quan tâm và chú trọng. Chỉ số hoạt động logistics của Việt Nam đứng thứ 3/10 quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, và đứng thứ 39/160 trên toàn cầu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp logistics Việt Nam vẫn còn nhỏ, cung cấp các dịch vụ chưa có giá trị gia tăng cao. Doanh nghiệp Việt Nam rất mong muốn học hỏi và tìm kiếm cơ hội hợp tác với quốc gia hàng đầu thế giới về lĩnh vực logistics là Singapore.
Tìm hiểu kinh nghiệm phát triển logistics từ Singapore
Tọa đàm là chương trình nằm trong khuôn khổ chuyến công tác của Bộ Công Thương nhằm tìm hiểu, học tập kinh nghiệm, giới thiệu cơ hội hợp tác kinh doanh, đầu tư trong lĩnh vực logistics giữa Việt Nam và Singapore, diễn ra từ ngày 02 đến ngày 09/4/2023. Hoạt động này được tổ chức nhằm triển khai Kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm được giao tại Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ.
Đoàn công tác do Cục Xuất nhập khẩu phối hợp với Thương vụ – Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore tổ chức, với sự tham gia của khoảng 35 đại diện đến từ các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương, các Hiệp hội và Doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics.
Ngoài những trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và thông tin từ sự kiện Tọa đàm “Việt Nam – Singapore: Thương mại và kết nối”, Đoàn Việt Nam có buổi làm việc với các cơ quan, tổ chức tại Singapore như Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore; Hiệp hội Logistics Singapore; Enterprises Singapore (ESG) để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực logistics, đặc biệt là kinh nghiệm trong xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ logistics và điều phối công tác phát triển logistics quốc gia.
Chương trình làm việc của Đoàn cũng bao gồm các buổi khảo sát, tham quan các cảng biển của Singapore dưới sự quản lý của PSA nhằm tìm hiểu về cách tiếp cận của Singapore về cảng tự động, cảnh xanh; thăm và làm việc với Supply Chain City – nhà cung cấp dịch vụ hậu cần và giải pháp đô thị thuộc Tập đoàn YCH; thăm trung tâm khai thác hàng hóa tại sân bay Changi; khảo sát cơ sở hạ tầng logistics thuộc CapitaLand, Mappletree, Access World; làm việc với Trafigura, Sembcorp để trao đổi, thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực logistics…
Tại Hội thảo “Thông tin xu hướng tiêu dùng và các tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Thái Lan năm 2023” do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC) phối hợp cùng Tập đoàn Central Retail tại Việt Nam tổ chức ngày 5/4, ông Nguyễn Tuấn – Phó Giám đốc Trung tâm ITPC cho biết Việt Nam và Thái Lan cùng là thành viên tích cực trong khuôn khổ hợp tác thương mại đa phương và tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do quan trọng. Điều này không chỉ giúp hàng rào thuế quan đối với hàng hóa của hai nước về cơ bản đã được dỡ bỏ, mở ra nhiều cơ hội cho hàng hóa xuất nhập khẩu mà còn tạo thuận lợi cho Việt Nam và Thái Lan hợp tác xây dựng chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu sang nước thứ ba.
Hội thảo “Thông tin xu hướng tiêu dùng và các tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Thái Lan năm 2023”
Với vị trí địa lý gần gũi, giao thông thuận tiện, tận dụng các tuyến giao thông kết nối như hành lang kinh tế Đông – Tây, hành lang kinh tế phía Nam… thuận lợi cho việc vận chuyển, bảo quản hàng hóa, hợp tác phát triển lĩnh vực logistics, thúc đẩy tích cực quan hệ Đối tác Chiến lược giữa Việt Nam – Thái Lan. Thái Lan luôn giữ vững vị trí là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong khối ASEAN.
Trong 02 tháng/ 2023, tổng kim ngạch thương mại song phương Việt Nam – Thái Lan đạt 3 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thái Lan đạt 1,2 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2022. Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Thái Lan đạt 1,8 tỷ USD, giảm 15,2% so với cùng kỳ năm 2022. Dự kiến kim ngạch thương mại song phương của hai nước sẽ sớm đạt được mục tiêu 25 tỷ USD trong thời gian tới.
Riêng về kim ngạch thương mại song phương giữa TP. Hồ Chí Minh và Thái Lan trong 2 tháng/ 2023 đạt 385 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của TP. Hồ Chí Minh sang Thái Lan đạt 110 triệu USD.
Thái Lan có hệ thống kênh phân phối đa dạng, tạo nhiều cơ hội cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào các hệ thống này và đến với người tiêu dùng Thái Lan. Bên cạnh đó, Việt Nam – Thái Lan và các nước ASEAN khác cùng tham gia vào nhiều hiệp định, các thỏa thuận thương mại song phương và đa phương như Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), các Hiệp định Thương mại tự do giữa ASEAN với các nước đối tác; đặc biệt phải kể đến là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Điều này không chỉ giúp hàng rào thuế quan đối với hàng hóa của hai nước về cơ bản đã được dỡ bỏ, mở ra nhiều cơ hội cho hàng hóa xuất nhập khẩu mà còn tạo thuận lợi cho Việt Nam và Thái Lan hợp tác xây dựng chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu sang nước thứ ba.
Để xuất khẩu vào Thái Lan doanh nghiệp phải nắm bắt các nhu cầu của thị trường này
Xuất khẩu vào thị trường Thái Lan doanh nghiệp cần đáp ứng nhiều tiêu chí
Thái Lan có hệ thống kênh phân phối đa dạng, nhiều cơ hội cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào các hệ thống này và tới người tiêu dùng Thái Lan. Tuy nhiên, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và Thái Lan có nhiều nét tương đồng, đặc biệt là nhóm ngành nông thủy sản nên hàng hóa xuất khẩu của hai nước có sự cạnh tranh lẫn nhau.
Ông Paul Lê – Phó Chủ tịch phụ trách xúc tiến thương mại – Central Retail Vietnam cho biết tại Hệ thống siêu thị GO!, Big C cho hay sẵn sàng đồng hành, hỗ trợ nhà sản xuất, nhà cung cấp, doanh nghiệp vừa và nhỏ… trong việc thâm nhập vào hệ thống phân phối hiện đại, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu, bằng các chương trình hành động thiết thực. Cụ thể, Central Retail thường xuyên phối hợp với các cơ quan xúc tiến thương mại, tổ chức các chương trình tập huấn, hướng dẫn cho doanh nghiệp Việt cải tiến bao bì, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm… sao cho phù hợp với kênh bán lẻ hiện đại. Từ đó, doanh nghiệp có cơ hội phân phối ra toàn quốc. Tính đến nay hệ thống siêu thị GO!, Big C đã có mặt tại 40 tỉnh thành sẽ mở ra cơ hội xuất khẩu cho hàng Việt thông qua mạng lưới bán lẻ ở quốc tế của Central Retail.
Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam cần nắm bắt được thị hiếu, sở thích, thói quen tiêu dùng của người Thái như ưa chuộng sản phẩm chế biến sẵn, đóng gói với nhiều kích thước. Thực phẩm cũng là phân khúc mục tiêu của doanh nghiệp Việt; tuy nhiên, đang có sự cạnh tranh rất quyết liệt giữa các nhà xuất khẩu. Với mặt hàng này hệ thống phân phối đã khá hoàn thiện, hơn nữa Thái Lan bảo hộ khá ngặt nghèo với ngành công nghiệp thực phẩm nên nhập khẩu cũng khó khăn. Do đó, doanh nghiệp Việt cần có chiến lược thị trường, sản phẩm cụ thể và mạnh mẽ rất khó cạnh tranh. Nhận diện thương hiệu thực phẩm nói riêng, hàng Việt nói chung chưa cao cũng cần thời gian xây dựng.
Mặt khác, kênh phân phối tại Thái Lan khá đa dạng gồm chợ truyền thống, cửa hàng tiện lợi, siêu thị và đại siêu thị. Mỗi kênh có đặc thù riêng về giá cả, bao bì đóng gói doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu kỹ lưỡng. Doanh nghiệp muốn xuất khẩu vào Thái Lan cũng cần chú ý tới yếu tố thị hiếu thích màu sắc, ưu tiên sản phẩm tốt cho sức khoẻ như ít đường, ít dầu mỡ và chú ý tới xu hướng sử dụng thương mại điện tử trong mua sắm của người tiêu dùng. Khi xuất khẩu vào Thái Lan, doanh nghiệp trong nước cũng được khuyến cáo đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, xin giấy chứng nhận nhập khẩu từ các cơ quan chức năng, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong chế biến, bảo quản sản phẩm nhằm đảm bảo duy trì chất lượng trong quá trình vận chuyển.
Theo đó, ngoại trừ 3 doanh nghiệp được kiểm tra trong quá trình phân tích rủi ro, các chuyên gia Trung Quốc đã tiến hành kiểm tra trực tuyến đối với 20 cơ sở đóng gói trong danh sách đề xuất của Việt Nam.
70 vùng trồng, 13 cơ sở đóng gói khoai lang đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc
Thông qua kiểm tra trực tuyến và trao đổi kỹ thuật, các chuyên gia Trung Quốc xác nhận 13 trong 23 cơ sở đóng gói đáp ứng được yêu cầu của Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch đối với sản phẩm khoai lang.
10 cơ sở đóng gói còn lại còn một số vấn đề cần khắc phục như: hệ thống quản lý chưa đạt tiêu chuẩn, thiết bị chưa hoàn chỉnh, thông số kỹ thuật không tốt hoặc cơ sở vật chất chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của nghị định thư.
Cùng với 13 cơ sở đóng gói này, danh sách 70 vùng trồng khoai lang đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc đã được đăng tải đầy đủ trên website của Cục Kiểm dịch động thực vật, Tổng cục Hải quan Trung Quốc tại địa chỉ: http://dzs.customs.gov.cn.
Tổng cục Hải quan đề nghị phía Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) thực hiện tốt công tác kiểm dịch trước xuất khẩu và hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đúng các yêu cầu của quy trình sản xuất, chế biến.
Trước đó, từ ngày 7/3 – 10/3/2023, được sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của Cục Bảo vệ thực vật và Đại sứ quán hai nước, đoàn chuyên gia Trung Quốc đã tiến hành kiểm tra trực tuyến doanh nghiệp khoai lang để được phê duyệt xuất khẩu sang Trung Quốc.
Thời gian tới, phía Trung Quốc sẵn sàng tăng cường hợp tác với Việt Nam để thúc đẩy hơn nữa việc phát triển thương mại khoai lang nói riêng và nông sản nói chung giữa hai nước.
Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch đối với khoai lang xuất khẩu sang Trung Quốc được công bố ngày 22/11/2022. Đây được xem là cơ hội cho người nông dân Việt Nam phát triển ngành hàng, gia tăng giá trị kinh tế cũng như chuyển dịch dần từ xuất khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch.
Bên cạnh các quy định về vùng trồng, giám sát quá trình chế biến, cơ sở đóng gói, áp dụng tiêu chuẩn VietGAP hoặc tương đương… Nghị định thư yêu cầu phía sản xuất phải áp dụng các biện pháp phòng trừ sinh vật gây hại trên khoai lang tím theo phụ lục.
Cục Bảo vệ thực vật cam kết, tiếp tục phối hợp, hỗ trợ cơ quan chuyên môn tại địa phương trong công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân. Mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như mở cửa thị trường hơn nữa cho sản phẩm khoai lang.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu của Tổng cục Hải quan cho biết, ước tính, xuất khẩu cao su của Việt Nam trong tháng 3/2023 đạt khoảng 130 nghìn tấn, trị giá 184 triệu USD, giảm 0,8% về lượng và giảm 0,6% về trị giá so với tháng 02/2023; so với tháng 3/2022 tăng 15,7% về lượng, nhưng giảm 9,2% về trị giá.
Quý I/2023, xuất khẩu cao su giảm 22,9% về giá trị
Giá xuất khẩu cao su bình quân ở mức 1.414 USD/tấn, tăng 0,2% so với tháng 02/2023, nhưng giảm 21,5% so với tháng 3/2022.
Lũy kế 3 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cao su ước đạt 396 nghìn tấn, trị giá 552 triệu USD, giảm 2,6% về lượng và giảm 22,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Chủng loại cao su xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280), Latex, SVR 10, SVR 3L, SVR CV60, RSS3,… Trong đó, hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280) vẫn là mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất.
Về thị trường xuất khẩu, hiện Trung Quốc chiếm tới 99,71% tổng lượng hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp xuất khẩu của Việt Nam.
Trong quý I/2023, phần lớn các chủng loại cao su xuất khẩu đều sụt giảm cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Tuy nhiên, xuất khẩu một số chủng loại cao su vẫn tăng trưởng tốt cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2022, trong đó đáng chú ý như: Cao su tổng hợp, RSS1, SVR CV40…, nhưng các chủng loại này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 3/2023, giá mủ cao su nguyên liệu tiếp tục duy trì quanh mức 230 – 288 đồng/TSC. Trong đó, tại Bình Phước, giá mủ cao su nguyên liệu được Công ty cao su Phú Riềng thu mua ở mức 270 – 280 đồng/TSC. Tại Bình Dương, giá thu mua mủ cao su nguyên liệu của Công ty cao su Phước Hòa dao động ở mức 286 – 288 đồng/TSC. Mủ cao su tại Gia Lai được Công ty cao su Mang Yang thu mua với giá 230 – 240 đồng/TSC, ổn định so với cuối tháng 02/2023.
Trên thị trường thế giới, trong tháng 3/2023, giá cao su tại các sàn giao dịch châu Á có xu hướng giảm so với tháng trước. Tại Sở giao dịch hàng hóa Osaka Exchange (OSE) Nhật Bản, giá cao su RSS3 đã giảm xuống 195,8 Yên/kg, mức thấp nhất tháng vào ngày 20/3/2023, sau đó giá cao su có xu hướng tăng trở lại, nhưng vẫn thấp hơn so với cuối tháng trước.
Tại Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), sau giảm xuống 11.575 NDT/tấn, mức thấp nhất tháng vào ngày 20/3/2023, giá cao su đã tăng nhẹ trở lại, nhưng vẫn giảm so với cuối tháng trước.
Tại Thái Lan, giá cao su RSS3 biến động mạnh, giảm xuống mức 52 Baht/kg vào ngày 20/3/2023, sau đó giá có xu hướng tăng trở lại, nhưng vẫn giảm so với cuối tháng trước.
Thông thường, những tháng đầu năm là mùa khô, các vườn trồng cao su ngừng cạo mủ cao su, nguồn cung giảm nên giá cao su thường tăng cao trong quý đầu năm. Tuy nhiên, trong năm nay việc giá xuất khẩu cao su giảm trong những tháng đầu năm là khá bất thường so với các năm trước.
Tiếp tục mở rộng và tận dụng cơ hội từ FTA; khai mở thêm các thị trường mới; triển khai mạnh các giải pháp xúc tiến thương mại… để gỡ khó cho xuất nhập khẩu.
Xuất nhập khẩu suy giảm
Theo báo cáo Bộ Công Thương công bố chiều ngày 3/4, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 03/2023 ước đạt 58,49 tỷ USD, tăng 18,6% so với tháng trước và giảm 13% so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý I/2023 có 2 kỳ nghỉ Tết (Dương lịch và Âm lịch), số ngày làm việc ít, cùng với sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu nên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 154,27 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 15%).
Cụ thể, về xuất khẩu hàng hóa, mặc dù kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 3/2023 có sự hồi phục, ước đạt 29,57 tỷ USD, tăng 13,5% so với tháng trước nhưng giảm tới 14,8% so với cùng kỳ năm trước do những khó khăn trong sản xuất và sụt giảm đơn hàng xuất khẩu…
Tính chung quý I/2023, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 79,17 tỷ USD, giảm 11,9% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 14,4%); trong đó khu vực doanh nghiệp trong nước giảm mạnh hơn (giảm 17,4%) so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (giảm 10%). Điều này cho thấy những khó khăn của các doanh nghiệp trong nước trong việc khôi phục sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu.
Cụ thể, về xuất khẩu các nhóm hàng, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản quý I/2023, ước đạt 6,86 tỷ USD, giảm 7,5% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 8,7% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Xuất khẩu gạo là điểm sáng thời gian qua
Điểm nổi bật trong xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản trong tháng 3 là xuất khẩu gạo tăng mạnh cả về lượng và về trị giá xuất khẩu. Ước tính xuất khẩu gạo tháng 3/2023 so với tháng trước tăng 68,3% về lượng và tăng 67,6% về kim ngạch; so với cùng kỳ năm ngoái, xuất khẩu gạo tăng 69,3% về lượng và tăng 82,3% về kim ngạch xuất khẩu.
Rau quả cũng là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Ông Đặng Phúc Nguyên – Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho biết, rau quả là số ít mặt hàng có sự tăng trưởng tích cực ngay từ đầu năm. Trong đó, xuất khẩu tới thị trường Trung Quốc tăng trưởng tốt, khoảng 23% so với năm ngoái là yếu tố chính thúc đẩy ngành hàng rau tăng trưởng khả quan. Việc Trung Quốc bỏ chính sách “Zero-Covid” đã giúp xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường này lấy lại đà tăng trưởng.
Bên cạnh đó, năm 2022, ta đã ký được một số nghị định quan trọng, nhất là tháng 7/2022 ký được nghị định thư với Trung Quốc về xuất khẩu sầu riêng; tháng 11, ký nghị định thư với Trung Quốc về xuất khẩu chuối, sau đó là khoai lang, tổ yến trúng vào dịp tết Nguyên đán thị trường Trung Quốc tiêu thụ rau quả tăng mạnh. Tiếp đó, đến tháng 10, Mỹ cho phép xuất bưởi sang nước này. Tháng 11, New Zealand ký kết mở cửa thị trường xuất khẩu bưởi, chanh của Việt Nam. Đây là yếu tố quan trọng giúp kim ngạch xuất khẩu rau quả có nhiều khởi sắc.
Cùng với nông sản, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo quý I/2023 suy giảm mạnh, ước đạt 67,5 tỷ USD, giảm 13,1% so với cùng kỳ năm ngoái do chịu ảnh hưởng từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu, tổng cầu giảm sút, nhu cầu của các thị trường xuất khẩu lớn giảm mạnh. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng trong nhóm đều giảm so với quý I/2022.
Một nhóm khác là nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản quý I/2023 có kim ngạch giảm 3,1% so với cùng kỳ năm 2022 chủ yếu do sự sụt giảm mạnh về kim ngạch xuất khẩu than đá (giảm 97,8%) và xuất khẩu quặng và khoáng sản khác (giảm 28,9%). Điểm sáng duy nhất trong xuất khẩu nhóm hàng này là xuất khẩu dầu thô tăng 17% so với cùng kỳ năm trước.
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu tới hầu hết các thị trường, đối tác thương mại lớn của nước ta trong quý I/2023 đều giảm. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 20,57 tỷ USD
Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 03/2023 ước đạt 28,92 tỷ USD, tăng 24,4% so với tháng trước nhưng giảm 11,1% so với cùng kỳ. Tính chung quý I/2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 75,1 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước.
Với diễn biến như vậy, cán cân thương mại của Việt Nam trong tháng 3/2023 tiếp tục thặng dư khoảng 650 triệu USD, nâng tổng xuất siêu trong quý I/2023 là 4,07 tỷ USD (cùng kỳ xuất siêu 1,87 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 6,77 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 10,8 tỷ USD.
Chắt chiu cơ hội
Bộ Công Thương dự báo thời gian tới, sức mua vẫn hồi phục chậm, sản xuất vẫn sẽ khó khăn do thiếu hụt đơn hàng. Việc tiếp cận vốn, lãi suất ngân hàng và chi phí đầu vào nguyên vật liệu vẫn ở mức cao. Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế của một số quốc gia tiếp tục có tác động không nhỏ đến các quốc gia phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực như điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ trong thời gian tới.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại để góp phần tăng trưởng xuất khẩu
Tuy nhiên, trong khó khăn vẫn có những dấu hiệu tích cực nhất định như một số khu vực kinh tế lớn như Trung Quốc, Mỹ tăng trưởng cao hơn dự báo; một số nền kinh tế đang nổi tại châu Á như Ấn Độ, ASEAN tăng trưởng khả quan. Các chính sách kích cầu đầu tư công và hỗ trợ doanh nghiệp của nhà nước phát huy tác dụng trong việc phục hồi các hoạt động sản xuất. Số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới tăng lần đầu tiên trong 3 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp dù có giảm nhưng xu hướng tăng dần qua các tháng; nhập khẩu nguyên phụ liệu có dấu hiệu tăng… là những yếu tố dự báo tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu trong thời gian tới sẽ khả quan hơn.
Đặc biệt, mới đây, việc đàm phán Hiệp định thương mại FTA Việt Nam – Israel (VIFTA) chính thức được tuyên bố kết thúc nhân chuyến công tác và làm việc tại Israel của Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên với Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghiệp Israel Nir Barkat ngày 2/4/2023. Israel là một trong những đối tác hợp tác thương mại, đầu tư và lao động quan trọng hàng đầu của Việt Nam tại khu vực. Israel hiện là thị trường xuất khẩu đứng thứ 3, là đối tác thương mại lớn thứ 5 của Việt Nam tại khu vực Tây Á và được đánh giá là thị trường lớn, tiềm năng tại Tây Á.
Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Israel đạt 2,2 tỷ USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến Israel đạt 785,7 triệu USD và kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Israel đạt 1,4 tỷ USD. Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho rằng với cơ cấu kinh tế có tính bổ trợ lẫn nhau và kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều đang tăng trưởng mạnh mẽ, Việt Nam và Israel sẽ đạt được nhiều lợi ích hơn nữa khi các ưu đãi và lợi thế từ VIFTA được tận dụng hiệu quả.
Trong thời gian tới, để tháo gỡ khó khăn cho xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục tổ chức các Hội nghị giao ban định kỳ hàng tháng giữa các cơ quan của Bộ, hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp và các Bộ, ngành liên quan để kịp thời cập nhật cho doanh nghiệp, Hiệp hội về thông tin, nhu cầu, cũng như các quy định mới của thị trường. Đẩy mạnh phát triển xuất nhập khẩu thông qua hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới.
Bên cạnh đó, tiếp tục mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu; hướng đến các thị trường mới, thị trường còn tiềm năng như Ấn Độ, châu Phi, Trung Đông và châu Mỹ La tinh, Đông Âu… Đẩy mạnh khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Tạo thuận lợi hoá, tăng cường chuyển đổi số trong công tác cấp Giấy chứng nhận xuất xứ C/O ưu đãi, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các Hiệp định FTA; Tập trung đổi mới và tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại. Thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics, qua đó giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.
Đối với các mặt hàng chủ lực, ông Đặng Phúc Nguyên nhấn mạnh, Trung Quốc vẫn sẽ là thị trường lớn nhất của rau quả Việt Nam khi mỗi năm thị trường này tiêu thụ khoảng 300 triệu tấn rau quả mà họ mới nhập 7-8 triệu tấn. Trong khi đó, nguồn cung của Việt Nam rất tiềm năng. Đây dự báo vẫn là thị trường chiến lược của rau quả Việt thời gian tới.
Riêng với thủy sản, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) chia sẻ, xuất khẩu thủy sản dù còn nhiều khó khăn song các doanh nghiệp vẫn trong tâm thế phát triển, tăng trưởng để cung cấp thực phẩm cho thế giới. Để giúp cho ngành thủy sản tăng trưởng, các doanh nghiệp đang nỗ lực nâng giá trị sản phẩm thủy sản thông qua gia tăng giá trị chế biến.