Xuất khẩu vào thị trường Thái Lan, doanh nghiệp Việt cần nắm bắt thị hiếu

Cơ hội lớn từ thị trường Thái Lan

Tại Hội thảo “Thông tin xu hướng tiêu dùng và các tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Thái Lan năm 2023” do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC) phối hợp cùng Tập đoàn Central Retail tại Việt Nam tổ chức ngày 5/4, ông Nguyễn Tuấn – Phó Giám đốc Trung tâm ITPC cho biết Việt Nam và Thái Lan cùng là thành viên tích cực trong khuôn khổ hợp tác thương mại đa phương và tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do quan trọng. Điều này không chỉ giúp hàng rào thuế quan đối với hàng hóa của hai nước về cơ bản đã được dỡ bỏ, mở ra nhiều cơ hội cho hàng hóa xuất nhập khẩu mà còn tạo thuận lợi cho Việt Nam và Thái Lan hợp tác xây dựng chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu sang nước thứ ba.

Hội thảo “Thông tin xu hướng tiêu dùng và các tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Thái Lan năm 2023”

Với vị trí địa lý gần gũi, giao thông thuận tiện, tận dụng các tuyến giao thông kết nối như hành lang kinh tế Đông – Tây, hành lang kinh tế phía Nam… thuận lợi cho việc vận chuyển, bảo quản hàng hóa, hợp tác phát triển lĩnh vực logistics, thúc đẩy tích cực quan hệ Đối tác Chiến lược giữa Việt Nam – Thái Lan. Thái Lan luôn giữ vững vị trí là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong khối ASEAN.

Trong 02 tháng/ 2023, tổng kim ngạch thương mại song phương Việt Nam – Thái Lan đạt 3 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thái Lan đạt 1,2 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2022. Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Thái Lan đạt 1,8 tỷ USD, giảm 15,2% so với cùng kỳ năm 2022. Dự kiến kim ngạch thương mại song phương của hai nước sẽ sớm đạt được mục tiêu 25 tỷ USD trong thời gian tới.

Riêng về kim ngạch thương mại song phương giữa TP. Hồ Chí Minh và Thái Lan trong 2 tháng/ 2023 đạt 385 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của TP. Hồ Chí Minh sang Thái Lan đạt 110 triệu USD.

Thái Lan có hệ thống kênh phân phối đa dạng, tạo nhiều cơ hội cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào các hệ thống này và đến với người tiêu dùng Thái Lan. Bên cạnh đó, Việt Nam – Thái Lan và các nước ASEAN khác cùng tham gia vào nhiều hiệp định, các thỏa thuận thương mại song phương và đa phương như Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), các Hiệp định Thương mại tự do giữa ASEAN với các nước đối tác; đặc biệt phải kể đến là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Điều này không chỉ giúp hàng rào thuế quan đối với hàng hóa của hai nước về cơ bản đã được dỡ bỏ, mở ra nhiều cơ hội cho hàng hóa xuất nhập khẩu mà còn tạo thuận lợi cho Việt Nam và Thái Lan hợp tác xây dựng chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu sang nước thứ ba.

Để xuất khẩu vào Thái Lan doanh nghiệp phải nắm bắt các nhu cầu của thị trường này

Xuất khẩu vào thị trường Thái Lan doanh nghiệp cần đáp ứng nhiều tiêu chí

Thái Lan có hệ thống kênh phân phối đa dạng, nhiều cơ hội cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào các hệ thống này và tới người tiêu dùng Thái Lan. Tuy nhiên, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và Thái Lan có nhiều nét tương đồng, đặc biệt là nhóm ngành nông thủy sản nên hàng hóa xuất khẩu của hai nước có sự cạnh tranh lẫn nhau.

Ông Paul Lê – Phó Chủ tịch phụ trách xúc tiến thương mại – Central Retail Vietnam cho biết tại Hệ thống siêu thị GO!, Big C cho hay sẵn sàng đồng hành, hỗ trợ nhà sản xuất, nhà cung cấp, doanh nghiệp vừa và nhỏ… trong việc thâm nhập vào hệ thống phân phối hiện đại, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu, bằng các chương trình hành động thiết thực. Cụ thể, Central Retail thường xuyên phối hợp với các cơ quan xúc tiến thương mại, tổ chức các chương trình tập huấn, hướng dẫn cho doanh nghiệp Việt cải tiến bao bì, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm… sao cho phù hợp với kênh bán lẻ hiện đại. Từ đó, doanh nghiệp có cơ hội phân phối ra toàn quốc. Tính đến nay hệ thống siêu thị GO!, Big C đã có mặt tại 40 tỉnh thành sẽ mở ra cơ hội xuất khẩu cho hàng Việt thông qua mạng lưới bán lẻ ở quốc tế của Central Retail.

Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam cần nắm bắt được thị hiếu, sở thích, thói quen tiêu dùng của người Thái như ưa chuộng sản phẩm chế biến sẵn, đóng gói với nhiều kích thước. Thực phẩm cũng là phân khúc mục tiêu của doanh nghiệp Việt; tuy nhiên, đang có sự cạnh tranh rất quyết liệt giữa các nhà xuất khẩu. Với mặt hàng này hệ thống phân phối đã khá hoàn thiện, hơn nữa Thái Lan bảo hộ khá ngặt nghèo với ngành công nghiệp thực phẩm nên nhập khẩu cũng khó khăn. Do đó, doanh nghiệp Việt cần có chiến lược thị trường, sản phẩm cụ thể và mạnh mẽ rất khó cạnh tranh. Nhận diện thương hiệu thực phẩm nói riêng, hàng Việt nói chung chưa cao cũng cần thời gian xây dựng.

Mặt khác, kênh phân phối tại Thái Lan khá đa dạng gồm chợ truyền thống, cửa hàng tiện lợi, siêu thị và đại siêu thị. Mỗi kênh có đặc thù riêng về giá cả, bao bì đóng gói doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu kỹ lưỡng. Doanh nghiệp muốn xuất khẩu vào Thái Lan cũng cần chú ý tới yếu tố thị hiếu thích màu sắc, ưu tiên sản phẩm tốt cho sức khoẻ như ít đường, ít dầu mỡ và chú ý tới xu hướng sử dụng thương mại điện tử trong mua sắm của người tiêu dùng. Khi xuất khẩu vào Thái Lan, doanh nghiệp trong nước cũng được khuyến cáo đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, xin giấy chứng nhận nhập khẩu từ các cơ quan chức năng, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong chế biến, bảo quản sản phẩm nhằm đảm bảo duy trì chất lượng trong quá trình vận chuyển.

 

Nguồn: congthuong

Lượng hàng hóa qua Cửa khẩu Móng Cái tăng nhanh trong quý I/2023

Theo thông tin từ Ban Quản lý Cửa khẩu quốc tế Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh), trong quý I/2023, tổng lượt người xuất nhập cảnh đạt 188.522 lượt người. Tổng trọng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu đạt gần 351.000 tấn, tăng 211% so cùng kỳ năm 2022.

Trong đó, tại cửa khẩu cầu Bắc Luân II có 8.906 phương tiện xuất nhập cảnh, tăng 82,8% so cùng kỳ năm 2022, trung bình đạt 124 phương tiện/ngày chở hơn 148.000 tấn, tăng 104% so với cùng kỳ năm 2022, bình quân đạt 2.056 tấn hàng hóa xuất nhập khẩu/ngày.

Xuất khẩu hàng hóa qua Lối mở cầu phao tạm Km 3+4 Hải Yên

Tại lối mở Km 3+4 Hải Yên có 11.759 phương tiện chở gần 185.000 tấn hàng hóa xuất nhập khẩu (bình quân đạt 142 phương tiện/ngày và 2.227 tấn/ngày) tăng 411 % so cùng kỳ 2022. Trong đó chủ yếu là các loại mặt hàng như hoa quả, bột sắn, thủy hải sản đông lạnh, hạt khô và các hàng hóa khác. Hàng hóa nhập khẩu là hàng tạp, hàng vải may mặc.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong 3 tháng đầu năm đạt 610 triệu USD, đạt 14% kế hoạch, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 350 triệu USD; kim ngạch nhập khẩu đạt 260 triệu USD. Trong quý I/2023, TP. Móng Cái đã thu hút được 70 doanh nghiệp mới, nâng tổng doanh nghiệp làm thủ tục thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu trên địa bàn lên 347 doanh nghiệp. Thu thuế xuất nhập khẩu trong 3 tháng đạt 371,9 tỷ đồng, đạt 20,6% so dự toán, tăng 56,3% so cùng kỳ.

Đáng chú ý, với việc cửa khẩu Đông Hưng (Trung Quốc) đã chính thức được Tổng cục Hải quan Trung Quốc nghiệm thu và trở thành địa điểm đủ điều kiện nhập khẩu lương thực sẽ thúc đẩy lượng hàng hóa xuất nhập khẩu tại Móng Cái. Dự kiến, lượng lương thực được làm thủ tục thông quan sang thị trường Trung Quốc qua cặp cửa khẩu Móng Cái – Đông Hưng đạt tối đa là 200.000 tấn/năm.

Cửa khẩu Quốc tế Móng Cái đang trở thành cửa ngõ thông quan, thúc đẩy thương mại hàng nông sản, thủy sản giữa Việt Nam và Trung Quốc và là cửa khẩu đường bộ lý tưởng đón khách du lịch xuất nhập cảnh.

 

Ngồn: congthuong

VCCI lo ngại có sự chồng lấn chia sẻ thông tin trong lĩnh vực xuất nhập khẩu

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa trả lời Công văn số 1164/BTC-TCHQ của Bộ Tài chính về đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định kết nối và chia sẻ thông tin trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa; xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh người và phương tiện vận tải theo cơ chế một cửa quốc gia.

VCCI đề xuất bỏ quy định VCCI là một trong những chủ thể cung cấp, chia sẻ thông tin do tổ chức này quản lý qua Cổng thông tin một cửa quốc gia

Nguy cơ “chồng lấn về việc chuyển dữ liệu thông tin”

Theo đó, VCCI nêu rõ, năm 2022 đơn vị này đã có Công văn số 0506/PTM-PC vào tháng 4/2022 và Công văn số 2137/PTM-PC tháng 10/2022 góp ý Dự thảo, tuy nhiên đối chiếu với Dự thảo (phiên bản số 3), một số ý kiến của VCCI đã được tiếp thu, nhưng một số ý kiến vẫn chưa được tiếp thu, mặc dù đã có giải trình.

Văn bản của VCCI cho rằng, theo quy định tại khoản 19 Điều 9 Dự thảo, VCCI là một trong những chủ thể cung cấp, chia sẻ thông tin (do VCCI quản lý) qua Cổng thông tin một cửa quốc gia. Tuy nhiên, trong các Công văn góp ý trước, VCCI đã đề xuất bỏ quy định này vì các lý do: “Chồng lấn về việc chuyển dữ liệu thông tin”.

Cụ thể, VCCI cho rằng, Bộ Công Thương có tất cả các thông tin mà VCCI có trách nhiệm chia sẻ, cung cấp theo Phụ lục XIX, bởi vì theo yêu cầu quản lý, VCCI phải chuyển dữ liệu tới Bộ Công Thương – cơ quan quản lý về việc cấp C/O, cũng theo quy định tại khoản 5 Điều 30 Nghị định 31/2008/NĐ-CP “trường hợp các cơ quan có thẩm quyền trong nước và quốc tế yêu cầu cung cấp hồ sơ, chứng từ, thông tin và tài liệu đó, thương nhân, các cơ quan, tổ chức cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa phải báo cáo Bộ Công Thương trước khi cung cấp”.

Khoản 2 Điều 9 Dự thảo quy định, Bộ Công Thương cũng là chủ thể phải cung cấp và chia sẻ thông tin mà bộ quản lý qua Cổng thông tin một cửa quốc gia. Trong đó, có các thông tin tương tự như thông tin VCCI cung cấp, chia sẻ tại Phụ lục XIX. Mặt khác, Dự thảo cũng như Phụ lục II không quy định rõ, thông tin về việc cấp C/O mà Bộ Công Thương chia sẻ là những thông tin C/O được cấp bởi Bộ Công Thương hay là tất cả các thông tin C/O (bao gồm cả những thông tin của các tổ chức được ủy quyền cấp).

“Vì vậy, sẽ có trường hợp cùng một thông tin nhưng cả Bộ Công Thương và VCCI đều chia sẻ qua Cổng thông tin một cửa quốc gia. Điều này sẽ là lãng phí về nguồn lực” – văn bản của VCCI nêu.

VCCI góp ý Dự thảo Nghị định kết nối và chia sẻ thông tin trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa; xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh người và phương tiện vận tải theo cơ chế một cửa quốc gia

Việc yêu cầu cơ quan chủ quản cung cấp sẽ đảm bảo tính đầy đủ của thông tin

Cũng theo VCCI, việc yêu cầu cơ quan chủ quản cung cấp sẽ đảm bảo tính đầy đủ của thông tin. Bởi theo quy định tại Nghị định 31/2018/NĐ-CP, Bộ Công Thương có thể trực tiếp cấp C/O và/hoặc ủy quyền cho tổ chức khác cấp. Hiện nay, ngoài VCCI còn có một số đơn vị, tổ chức khác được ủy quyền cấp C/O. Các tổ chức được ủy quyền cũng phải có trách nhiệm kết nối và chia sẻ dữ liệu về việc cấp C/O cho Bộ Công Thương.

Bộ Công Thương là cơ quan có đầy đủ dữ liệu về các thông tin liên quan đến việc cấp C/O. Mục đích chính của quy định kết nối, chia sẻ thông tin về hoạt động cấp C/O là có được tất cả các thông tin liên quan đến hoạt động này. Vì vậy, yêu cầu cơ quan quản lý chia sẻ và kết nối thông tin sẽ đảm bảo được tính thống nhất, đầy đủ của thông tin.

Tuy vậy, theo VCCI các góp ý trên chưa được tiếp thu và được giải trình là “Đề nghị giữ như dự thảo để rõ trách nhiệm đơn vị chủ quản cơ sở dữ liệu”. Trong trường hợp trên, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý các thông tin về việc cấp C/O là Bộ Công Thương, VCCI sẽ chịu trách nhiệm đối với Bộ Công Thương về việc chuyển dữ liệu thông tin về bộ quản lý.

“Còn việc chia sẻ thông tin qua Cổng thông tin một cửa quốc gia thì nên tập trung vào một đầu mối là bộ chủ quản sẽ phù hợp và giải quyết được những hạn chế nêu ở trên. Trong tài liệu gửi kèm đối với Dự thảo phiên bản số 3, không thấy Ban soạn thảo giải trình về nội dung VCCI trao đổi lại này” – VCCI nhấn mạnh và cho biết, trong trường hợp, Dự thảo vẫn giữ quy định trên, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét vấn đề: Để kết nối chia sẻ qua Cổng thông tin một cửa quốc gia, VCCI phải có chi phí, nguồn nhân lực để bảo đảm việc kết nối, chia sẻ thông tin.

Vì tại khoản 2 Điều 25 Dự thảo quy định kinh phí, nguồn nhân lực bảo đảm kết nối, chia sẻ thông tin thực hiện theo Điều 29, 30 Nghị định số 47/2020/NĐ-CP và quy định của pháp luật liên quan.

Tuy nhiên Điều 29, 30 Nghị định 47/2020/NĐ-CP chỉ quy định nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước đảm bảo cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan nhà nước ở địa phương. Như vậy, theo quy định này VCCI sẽ không được hỗ trợ kinh phí, nguồn nhân lực. Nếu không được hỗ trợ kinh phí cho hoạt động này, VCCI sẽ gặp rất nhiều khó khăn để có thể thực hiện một cách có hiệu quả việc kết nối, chia sẻ thông tin này.

Do đó, để đảm bảo công bằng và tạo thuận lợi cho các chủ thể thực hiện chia sẻ về kinh phí, nguồn nhân lực đảm bảo kết nối, chia sẻ thông tin, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung VCCI vào đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ về kinh phí khi chia sẻ, kết nối thông tin theo cơ chế một cửa quốc gia.

Cần rõ ràng hơn thông tin sẽ chia sẻ

Liên quan đến các thông tin do tổ chức cung cấp, chia sẻ qua Cổng thông tin một cửa quốc gia, VCCI nhận định, so với Dự thảo trước, Dự thảo phiên bản 3 đã sửa đổi quy định về các thông tin do tổ chức, doanh nghiệp kết nối chia sẻ qua Cổng thông tin một cửa quốc gia. Tuy nhiên, các thông tin mà tổ chức, cá nhân phải kết nối, chia sẻ tại Phụ lục XX lại không đủ rõ ràng.

“Ví dụ: “Thông tin doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng”, “thông tin từ doanh nghiệp xuất nhập khẩu” là những thông tin gì? Các thông tin chi tiết sẽ được quy định ở đâu?” – Văn bản của VCCI đặt câu hỏi.

Từ đó VCCI cho rằng, việc thiếu rõ ràng như vậy có thể khiến cho quy định này, hoặc các thông tin doanh nghiệp phải cung cấp là những thông tin đã có của các cơ quan quản lý nhà nước, ví dụ: Các thông tin định danh tổ chức, cá nhân; các thông tin về giấy phép, các thông tin về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;… Hoặc các thông tin thuộc về bí mật kinh doanh của doanh nghiệp, cá nhân.

Trong khi đó, đây là quy định sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể các thông tin mà các đối tượng này cần chia sẻ và cần đánh giá tác động đối với quy định này.

 

Nguồn: congthuong

70 vùng trồng, 13 cơ sở đóng gói khoai lang đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc

Theo đó, ngoại trừ 3 doanh nghiệp được kiểm tra trong quá trình phân tích rủi ro, các chuyên gia Trung Quốc đã tiến hành kiểm tra trực tuyến đối với 20 cơ sở đóng gói trong danh sách đề xuất của Việt Nam.

70 vùng trồng, 13 cơ sở đóng gói khoai lang đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc

Thông qua kiểm tra trực tuyến và trao đổi kỹ thuật, các chuyên gia Trung Quốc xác nhận 13 trong 23 cơ sở đóng gói đáp ứng được yêu cầu của Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch đối với sản phẩm khoai lang.

10 cơ sở đóng gói còn lại còn một số vấn đề cần khắc phục như: hệ thống quản lý chưa đạt tiêu chuẩn, thiết bị chưa hoàn chỉnh, thông số kỹ thuật không tốt hoặc cơ sở vật chất chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của nghị định thư.

Cùng với 13 cơ sở đóng gói này, danh sách 70 vùng trồng khoai lang đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc đã được đăng tải đầy đủ trên website của Cục Kiểm dịch động thực vật, Tổng cục Hải quan Trung Quốc tại địa chỉ: http://dzs.customs.gov.cn.

Tổng cục Hải quan đề nghị phía Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) thực hiện tốt công tác kiểm dịch trước xuất khẩu và hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đúng các yêu cầu của quy trình sản xuất, chế biến.

Trước đó, từ ngày 7/3 – 10/3/2023, được sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của Cục Bảo vệ thực vật và Đại sứ quán hai nước, đoàn chuyên gia Trung Quốc đã tiến hành kiểm tra trực tuyến doanh nghiệp khoai lang để được phê duyệt xuất khẩu sang Trung Quốc.

Thời gian tới, phía Trung Quốc sẵn sàng tăng cường hợp tác với Việt Nam để thúc đẩy hơn nữa việc phát triển thương mại khoai lang nói riêng và nông sản nói chung giữa hai nước.

Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch đối với khoai lang xuất khẩu sang Trung Quốc được công bố ngày 22/11/2022. Đây được xem là cơ hội cho người nông dân Việt Nam phát triển ngành hàng, gia tăng giá trị kinh tế cũng như chuyển dịch dần từ xuất khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch.

Bên cạnh các quy định về vùng trồng, giám sát quá trình chế biến, cơ sở đóng gói, áp dụng tiêu chuẩn VietGAP hoặc tương đương… Nghị định thư yêu cầu phía sản xuất phải áp dụng các biện pháp phòng trừ sinh vật gây hại trên khoai lang tím theo phụ lục.

Cục Bảo vệ thực vật cam kết, tiếp tục phối hợp, hỗ trợ cơ quan chuyên môn tại địa phương trong công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân. Mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như mở cửa thị trường hơn nữa cho sản phẩm khoai lang.

Nguồn: congthuong

Quý I/2023, xuất khẩu cao su giảm 22,9% về giá trị

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu của Tổng cục Hải quan cho biết, ước tính, xuất khẩu cao su của Việt Nam trong tháng 3/2023 đạt khoảng 130 nghìn tấn, trị giá 184 triệu USD, giảm 0,8% về lượng và giảm 0,6% về trị giá so với tháng 02/2023; so với tháng 3/2022 tăng 15,7% về lượng, nhưng giảm 9,2% về trị giá.

Quý I/2023, xuất khẩu cao su giảm 22,9% về giá trị

Giá xuất khẩu cao su bình quân ở mức 1.414 USD/tấn, tăng 0,2% so với tháng 02/2023, nhưng giảm 21,5% so với tháng 3/2022.

Lũy kế 3 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cao su ước đạt 396 nghìn tấn, trị giá 552 triệu USD, giảm 2,6% về lượng và giảm 22,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.

Chủng loại cao su xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280), Latex, SVR 10, SVR 3L, SVR CV60, RSS3,… Trong đó, hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280) vẫn là mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất.

Về thị trường xuất khẩu, hiện Trung Quốc chiếm tới 99,71% tổng lượng hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp xuất khẩu của Việt Nam.

Trong quý I/2023, phần lớn các chủng loại cao su xuất khẩu đều sụt giảm cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Tuy nhiên, xuất khẩu một số chủng loại cao su vẫn tăng trưởng tốt cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2022, trong đó đáng chú ý như: Cao su tổng hợp, RSS1, SVR CV40…, nhưng các chủng loại này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam.

Tại thị trường trong nước, trong tháng 3/2023, giá mủ cao su nguyên liệu tiếp tục duy trì quanh mức 230 – 288 đồng/TSC. Trong đó, tại Bình Phước, giá mủ cao su nguyên liệu được Công ty cao su Phú Riềng thu mua ở mức 270 – 280 đồng/TSC. Tại Bình Dương, giá thu mua mủ cao su nguyên liệu của Công ty cao su Phước Hòa dao động ở mức 286 – 288 đồng/TSC. Mủ cao su tại Gia Lai được Công ty cao su Mang Yang thu mua với giá 230 – 240 đồng/TSC, ổn định so với cuối tháng 02/2023.

Trên thị trường thế giới, trong tháng 3/2023, giá cao su tại các sàn giao dịch châu Á có xu hướng giảm so với tháng trước. Tại Sở giao dịch hàng hóa Osaka Exchange (OSE) Nhật Bản, giá cao su RSS3 đã giảm xuống 195,8 Yên/kg, mức thấp nhất tháng vào ngày 20/3/2023, sau đó giá cao su có xu hướng tăng trở lại, nhưng vẫn thấp hơn so với cuối tháng trước.

Tại Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), sau giảm xuống 11.575 NDT/tấn, mức thấp nhất tháng vào ngày 20/3/2023, giá cao su đã tăng nhẹ trở lại, nhưng vẫn giảm so với cuối tháng trước.

Tại Thái Lan, giá cao su RSS3 biến động mạnh, giảm xuống mức 52 Baht/kg vào ngày 20/3/2023, sau đó giá có xu hướng tăng trở lại, nhưng vẫn giảm so với cuối tháng trước.

Thông thường, những tháng đầu năm là mùa khô, các vườn trồng cao su ngừng cạo mủ cao su, nguồn cung giảm nên giá cao su thường tăng cao trong quý đầu năm. Tuy nhiên, trong năm nay việc giá xuất khẩu cao su giảm trong những tháng đầu năm là khá bất thường so với các năm trước.

 

Nguồn: congthuong

Doanh nghiệp thủy sản “ăn đong” đơn hàng

Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đang rơi vào tình cảnh “ăn đong” từng container hàng. Không chỉ người bán, ngay cả người mua cũng vậy.

Xuất khẩu sụt giảm mạnh

Những tháng đầu năm 2023, tình trạng đơn hàng xuất khẩu giảm mạnh, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cho biết trong 3 tháng đầu năm, các doanh nghiệp phải luân phiên đóng cửa.

Ông Trần Văn Lĩnh – Tổng giám đốc Công ty Thuận Phước cho biết, với các doanh nghiệp thủy sản, hiện nay tình trạng “đói đơn hàng diễn ra khá phổ biến. Theo ông Lĩnh, thông thường các năm trước đến thời điểm này các doanh nghiệp đã ký xong đơn hàng cho quý IV nhưng bây giờ ký được container nào thì làm container đó.

Tình cảnh của doanh nghiệp thủy sản bây giờ là ‘ăn đong’ từng container hàng. Không chỉ người bán, ngay cả người mua cũng vậy. Do chỉ có đơn hàng nhỏ lẻ nên đã có một số doanh nghiệp thủy sản đóng cửa nhà máy luân phiên, sản xuất cầm chừng”, ông Trần Văn Lĩnh chia sẻ.

Cũng theo ông Lĩnh, không chỉ giảm sút trầm trọng về đơn hàng mà giá xuất khẩu thủy sản vào các thị trường đều thấp do doanh nghiệp bán bằng đô la. Hơn nữa đồng Việt Nam đang mạnh lên so với đồng đô la Mỹ nên doanh nghiệp xuất khẩu càng bị khó.

Đơn hàng xuất khẩu thủy sản giảm sút mạnh trong quý I/2023

Trên thực tế, thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (Vasep), kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 3/2023 ước đạt 780 triệu USD, giảm 24% so với cùng kỳ năm 2022. Lũy kế hết quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt khoảng 1,85 tỷ USD, giảm 27% so với quý I/2022. Trong đó, mặt hàng tôm giảm sâu nhất khi đạt 577 triệu USD, giảm 40%; cá tra đạt 447 triệu USD, giảm 32%; cá ngừ đạt 179 triệu USD, giảm 31%. Xuất khẩu mực, bạch tuộc cũng giảm 8% khi đạt 54 triệu USD.

Lý giải về sự sụt giảm trên, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Vasep cho hay, thị trường bây giờ rất khó vì có người bán mà không có người mua, do đó, khả năng xuất khẩu thủy sản sẽ còn rớt sâu hơn nữa.

Theo ông Hoè, qua trao đổi với các doanh nghiệp thuỷ sản được biết, bây giờ đã bước sang tháng 4, song đơn hàng vẫn chưa có, nếu như vậy thì làm sao có thể “cứu” kim ngạch xuất khẩu.

Mặc dù khó khăn, song các doanh nghiệp cũng không biết giải quyết thế nào, vì vấn đề không phải do nội tại mà do thị trường nhập khẩu. Chúng ta không thể nào ép nhà nhập khẩu mua hàng. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp cho rằng, với tình hình thị trường Mỹ như thế này, nếu vì nể nhau nhà nhập khẩu đưa đơn hàng với giá quá thấp hoặc kèm theo điều kiện giao hàng này nọ … thì doanh nghiệp cũng không thể làm được. Không riêng gì thị trường Mỹ, phần lớn các thị trường xuất khẩu đều trong trạng thái rất chậm”, ông Trương Đình Hòe nói.

Triển vọng từ thị trường Trung Quốc

Bà Lê Hằng, Giám đốc Truyền thông Vasep phân tích, thị trường thế giới vẫn bị tác động nặng nề bởi lạm phát, kinh tế suy giảm khiến nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu thủy sản giảm, giá nhập khẩu cũng giảm theo.

Theo đó, xu hướng chung trong nửa đầu năm 2023 là xuất khẩu tôm sẽ hồi phục chậm vì cạnh tranh gay gắt với Ấn Độ, Ecuador, Indonesia. Xuất khẩu cá tra khả quan hơn trong bối cảnh lạm phát và kinh tế suy giảm ở nhiều thị trường và có thêm cơ hội lớn sau khi Trung Quốc mở cửa trở lại hoàn toàn sau thời gian dài dịch COVID-19. Xuất khẩu các loài cá biển dự báo tiếp tục tăng.

Tại các thị trường lớn như: Mỹ, EU đang có xu hướng tăng tiêu thụ các sản phẩm truyền thống tại các siêu thị cho người tiêu dùng châu Á. Do vậy, xuất khẩu hàng khô (cá, tôm, mực), nước mắm, chả cá, đồ hộp sẽ tăng.

Ông Trương Đình Hòe – Phó Tổng thư ký Vasep cho rằng, trong khi các nước đối thủ như Ấn Độ, Ecuador tập trung vào sản phẩm sơ chế, các doanh nghiệp xuất khẩu phải nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm.

Đồng thời điều chỉnh hợp lý các sản phẩm xuất khẩu. Điển hình như, với Trung Quốc thì ngoài sản phẩm đông lạnh, doanh nghiệp nên tận dụng lợi thế về vị trí địa lý gần để tăng xuất khẩu tôm, hải sản tươi/sống cho phân khúc nhà hàng, khách sạn, du lịch. Với các thị trường lớn khác như: Mỹ, EU, doanh nghiệp quan tâm hơn đến xu hướng nhập khẩu hàng cho các siêu thị châu Á, nghĩa là các dòng sản phẩm truyền thống đang hút khách như: hàng khô, nước mắm, mắm ruốc…

Cùng với đó, xu hướng tiêu dùng thế giới đang tập trung vào các sản phẩm tốt cho sức khỏe, thân thiện môi trường và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Vì thế, ngành thủy sản cần phát triển theo mô hình kinh tế xanh, chú trọng nuôi trồng bền vững, như mô hình tôm lúa, tôm rừng… tạo các sản phẩm nuôi bền vững thuyết phục khách hàng thế giới. Chú trọng chế biến các sản phẩm mới từ các phụ phẩm, tăng tính cạnh tranh cho thủy sản Việt Nam.

Xu hướng tiêu dùng thủy sản của thế giới là tập trung vào các sản phẩm tốt cho sức khỏe, thân thiện môi trường và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Đối với xu hướng này Việt Nam đang có nhiều lợi thế”, Tổng thư ký Vasep nói.

 

Nguồn: congthuong

Bộ Công Thương tiếp tục triển khai loạt giải pháp gỡ khó cho xuất nhập khẩu

Tiếp tục mở rộng và tận dụng cơ hội từ FTA; khai mở thêm các thị trường mới; triển khai mạnh các giải pháp xúc tiến thương mại… để gỡ khó cho xuất nhập khẩu.

Xuất nhập khẩu suy giảm

Theo báo cáo Bộ Công Thương công bố chiều ngày 3/4, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 03/2023 ước đạt 58,49 tỷ USD, tăng 18,6% so với tháng trước và giảm 13% so với cùng kỳ năm trước.

Trong quý I/2023 có 2 kỳ nghỉ Tết (Dương lịch và Âm lịch), số ngày làm việc ít, cùng với sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu nên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 154,27 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 15%).

Cụ thể, về xuất khẩu hàng hóa, mặc dù kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 3/2023 có sự hồi phục, ước đạt 29,57 tỷ USD, tăng 13,5% so với tháng trước nhưng giảm tới 14,8% so với cùng kỳ năm trước do những khó khăn trong sản xuất và sụt giảm đơn hàng xuất khẩu…

Tính chung quý I/2023, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 79,17 tỷ USD, giảm 11,9% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 14,4%); trong đó khu vực doanh nghiệp trong nước giảm mạnh hơn (giảm 17,4%) so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (giảm 10%). Điều này cho thấy những khó khăn của các doanh nghiệp trong nước trong việc khôi phục sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu.

Cụ thể, về xuất khẩu các nhóm hàng, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản quý I/2023, ước đạt 6,86 tỷ USD, giảm 7,5% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 8,7% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Xuất khẩu gạo là điểm sáng thời gian qua

Điểm nổi bật trong xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản trong tháng 3 là xuất khẩu gạo tăng mạnh cả về lượng và về trị giá xuất khẩu. Ước tính xuất khẩu gạo tháng 3/2023 so với tháng trước tăng 68,3% về lượng và tăng 67,6% về kim ngạch; so với cùng kỳ năm ngoái, xuất khẩu gạo tăng 69,3% về lượng và tăng 82,3% về kim ngạch xuất khẩu.

Rau quả cũng là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Ông Đặng Phúc Nguyên – Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho biết, rau quả là số ít mặt hàng có sự tăng trưởng tích cực ngay từ đầu năm. Trong đó, xuất khẩu tới thị trường Trung Quốc tăng trưởng tốt, khoảng 23% so với năm ngoái là yếu tố chính thúc đẩy ngành hàng rau tăng trưởng khả quan. Việc Trung Quốc bỏ chính sách “Zero-Covid” đã giúp xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường này lấy lại đà tăng trưởng.

Bên cạnh đó, năm 2022, ta đã ký được một số nghị định quan trọng, nhất là tháng 7/2022 ký được nghị định thư với Trung Quốc về xuất khẩu sầu riêng; tháng 11, ký nghị định thư với Trung Quốc về xuất khẩu chuối, sau đó là khoai lang, tổ yến trúng vào dịp tết Nguyên đán thị trường Trung Quốc tiêu thụ rau quả tăng mạnh. Tiếp đó, đến tháng 10, Mỹ cho phép xuất bưởi sang nước này. Tháng 11, New Zealand ký kết mở cửa thị trường xuất khẩu bưởi, chanh của Việt Nam. Đây là yếu tố quan trọng giúp kim ngạch xuất khẩu rau quả có nhiều khởi sắc.

Cùng với nông sản, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo quý I/2023 suy giảm mạnh, ước đạt 67,5 tỷ USD, giảm 13,1% so với cùng kỳ năm ngoái do chịu ảnh hưởng từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu, tổng cầu giảm sút, nhu cầu của các thị trường xuất khẩu lớn giảm mạnh. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng trong nhóm đều giảm so với quý I/2022.

Một nhóm khác là nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản quý I/2023 có kim ngạch giảm 3,1% so với cùng kỳ năm 2022 chủ yếu do sự sụt giảm mạnh về kim ngạch xuất khẩu than đá (giảm 97,8%) và xuất khẩu quặng và khoáng sản khác (giảm 28,9%). Điểm sáng duy nhất trong xuất khẩu nhóm hàng này là xuất khẩu dầu thô tăng 17% so với cùng kỳ năm trước.

Về thị trường xuất khẩu hàng hóa quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu tới hầu hết các thị trường, đối tác thương mại lớn của nước ta trong quý I/2023 đều giảm. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 20,57 tỷ USD

Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 03/2023 ước đạt 28,92 tỷ USD, tăng 24,4% so với tháng trước nhưng giảm 11,1% so với cùng kỳ. Tính chung quý I/2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 75,1 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước.

Với diễn biến như vậy, cán cân thương mại của Việt Nam trong tháng 3/2023 tiếp tục thặng dư khoảng 650 triệu USD, nâng tổng xuất siêu trong quý I/2023 là 4,07 tỷ USD (cùng kỳ xuất siêu 1,87 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 6,77 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 10,8 tỷ USD.

Chắt chiu cơ hội

Bộ Công Thương dự báo thời gian tới, sức mua vẫn hồi phục chậm, sản xuất vẫn sẽ khó khăn do thiếu hụt đơn hàng. Việc tiếp cận vốn, lãi suất ngân hàng và chi phí đầu vào nguyên vật liệu vẫn ở mức cao. Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế của một số quốc gia tiếp tục có tác động không nhỏ đến các quốc gia phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực như điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ trong thời gian tới.

Đẩy mạnh xúc tiến thương mại để góp phần tăng trưởng xuất khẩu

Tuy nhiên, trong khó khăn vẫn có những dấu hiệu tích cực nhất định như một số khu vực kinh tế lớn như Trung Quốc, Mỹ tăng trưởng cao hơn dự báo; một số nền kinh tế đang nổi tại châu Á như Ấn Độ, ASEAN tăng trưởng khả quan. Các chính sách kích cầu đầu tư công và hỗ trợ doanh nghiệp của nhà nước phát huy tác dụng trong việc phục hồi các hoạt động sản xuất. Số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới tăng lần đầu tiên trong 3 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp dù có giảm nhưng xu hướng tăng dần qua các tháng; nhập khẩu nguyên phụ liệu có dấu hiệu tăng… là những yếu tố dự báo tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu trong thời gian tới sẽ khả quan hơn.

Đặc biệt, mới đây, việc đàm phán Hiệp định thương mại FTA Việt Nam – Israel (VIFTA) chính thức được tuyên bố kết thúc nhân chuyến công tác và làm việc tại Israel của Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên với Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghiệp Israel Nir Barkat ngày 2/4/2023. Israel là một trong những đối tác hợp tác thương mại, đầu tư và lao động quan trọng hàng đầu của Việt Nam tại khu vực. Israel hiện là thị trường xuất khẩu đứng thứ 3, là đối tác thương mại lớn thứ 5 của Việt Nam tại khu vực Tây Á và được đánh giá là thị trường lớn, tiềm năng tại Tây Á.

Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Israel đạt 2,2 tỷ USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến Israel đạt 785,7 triệu USD và kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Israel đạt 1,4 tỷ USD. Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho rằng với cơ cấu kinh tế có tính bổ trợ lẫn nhau và kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều đang tăng trưởng mạnh mẽ, Việt Nam và Israel sẽ đạt được nhiều lợi ích hơn nữa khi các ưu đãi và lợi thế từ VIFTA được tận dụng hiệu quả.

Trong thời gian tới, để tháo gỡ khó khăn cho xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục tổ chức các Hội nghị giao ban định kỳ hàng tháng giữa các cơ quan của Bộ, hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp và các Bộ, ngành liên quan để kịp thời cập nhật cho doanh nghiệp, Hiệp hội về thông tin, nhu cầu, cũng như các quy định mới của thị trường. Đẩy mạnh phát triển xuất nhập khẩu thông qua hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới.

Bên cạnh đó, tiếp tục mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu; hướng đến các thị trường mới, thị trường còn tiềm năng như Ấn Độ, châu Phi, Trung Đông và châu Mỹ La tinh, Đông Âu… Đẩy mạnh khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Tạo thuận lợi hoá, tăng cường chuyển đổi số trong công tác cấp Giấy chứng nhận xuất xứ C/O ưu đãi, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các Hiệp định FTA; Tập trung đổi mới và tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại. Thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics, qua đó giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.

Đối với các mặt hàng chủ lực, ông Đặng Phúc Nguyên nhấn mạnh, Trung Quốc vẫn sẽ là thị trường lớn nhất của rau quả Việt Nam khi mỗi năm thị trường này tiêu thụ khoảng 300 triệu tấn rau quả mà họ mới nhập 7-8 triệu tấn. Trong khi đó, nguồn cung của Việt Nam rất tiềm năng. Đây dự báo vẫn là thị trường chiến lược của rau quả Việt thời gian tới.

Riêng với thủy sản, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) chia sẻ, xuất khẩu thủy sản dù còn nhiều khó khăn song các doanh nghiệp vẫn trong tâm thế phát triển, tăng trưởng để cung cấp thực phẩm cho thế giới. Để giúp cho ngành thủy sản tăng trưởng, các doanh nghiệp đang nỗ lực nâng giá trị sản phẩm thủy sản thông qua gia tăng giá trị chế biến.

 

Ngồn: congthuong

Quý I/2023, thu ngân sách từ xuất nhập khẩu đạt 91.267 tỷ đồng

Theo Tổng cục Hải quan, số thu ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu Quý I/2023 đạt 91.267 tỷ đồng, trong đó, tháng 3 đạt 33.476 tỷ đồng.

Tổng cục Hải quan cho biết, trong tháng 3/2023, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam ước đạt 58,49 tỷ USD, tăng 18,6% so với tháng trước (tương ứng tăng 9,19 tỷ USD).

Công chức Cục Hải quan Đồng Nai – Tổng cục Hải quan kiểm tra mã hàng hoá xuất, nhập khẩu

Trong đó, trị giá xuất khẩu ước đạt 29,57 tỷ USD, tăng 13,5% (tương ứng tăng 3,52 tỷ USD) so với tháng trước và trị giá nhập khẩu ước đạt 28,92 tỷ USD, tăng 24,4% (tương ứng tăng 5,67 tỷ USD) so với tháng trước.

Lũy kế 3 tháng đầu năm 2023, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam ước đạt 154,27 tỷ USD, giảm 13,3% (tương ứng giảm 23,62 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022.

Trong đó, trị giá xuất khẩu ước đạt 79,17 tỷ USD, giảm 11,9% (tương ứng giảm 10,71 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022 và trị giá nhập khẩu ước đạt 75,1 tỷ USD, giảm 14,7% (tương ứng giảm 12,91 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022.

Cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam trong tháng 3/2023 ước tính thặng dư 645 triệu USD. Như vậy, lũy kế 3 tháng từ đầu năm 2023, cả nước ước tính thặng dư 4,07 tỷ USD.

Cũng theo Tổng cục Hải quan, số thu ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu tháng 3 đạt 33.476 tỷ đồng. Quý I/2013 đạt 91.267 tỷ đồng, đạt 21,5% dự toán, giảm 17% (tương đương 17.780 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm 2022.

Trong thời gian qua, ngành Hải quan đã tích cực hỗ trợ doanh nghiệp xuất nhập khẩu, bảo đảm nguồn nguyên liệu, chuỗi cung ứng, đẩy nhanh thủ tục thông quan. Đến nay, 100% thủ tục hải quan cơ bản đã được tự động hóa, 100% Cục Hải quan, Chi cục hải quan thực hiện thủ tục hải quan điện tử với 99,65% doanh nghiệp tham gia.

Nhờ đó, việc khai báo, tiếp nhận, xử lý thông tin và ra quyết định thông quan được thực hiện với mức độ tự động hóa rất cao; thời gian xử lý bộ hồ sơ hải quan chỉ từ 01 – 03 giây.

Tổng cục Hải quan đã phối hợp với Công ty EPAY triển khai phần mềm khai hải quan miễn phí cho doanh nghiệp; tiếp tục triển khai mở rộng trong phạm vi toàn quốc hệ thống seal định vị điện tử GPS phục vụ giám sát hàng hóa vận xuất nhập khẩu vận chuyển bằng container, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.

Ngoài ra, từ năm 2017, Tổng cục Hải quan cũng đã triển khai Hệ thống quản lý hải quan tự động (VASSCM) thông qua việc kết nối, trao đổi thông tin với doanh nghiệp kinh doanh cảng, sân bay, kho bãi, địa điểm chịu sự giám sát hải quan.

Việc triển khai hệ thống VASSCM góp phần làm cho hồ sơ, thủ tục để đưa hàng ra khỏi kho bãi cảng đơn giản; giảm tiếp xúc giữa hải quan và doanh nghiệp; giảm thời gian đi lại làm thủ tục của doanh nghiệp xuất nhập khẩu khắc phục được tình trạng ùn tắc tại cổng cảng/kho bãi; tạo ra sự thuận lợi, minh bạch trong quản lý điều hành công việc của doanh nghiệp.

Nguồn: congthuong

Quý I/2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm giảm 2 con số

Trong quý I/2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm ước đạt 172,42 triệu USD, giảm 35,1% so với cùng kỳ năm 2022.

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu Tổng cục Hải quan cho biết, ước tính, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm trong tháng 3/2023 đạt 70 triệu USD, tăng 23,5% so với tháng 2/2023, nhưng giảm 21,5% so với tháng 3/2022. Tính chung trong quý I/2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm ước đạt 172,42 triệu USD, giảm 35,1% so với cùng kỳ năm 2022.

Quý I/2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm giảm 2 con số

Riêng trong tháng 2/2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm của Việt Nam đạt 56,66 triệu USD, tăng 23,8% so với tháng 1/2023, nhưng giảm 16,3% so với tháng 02/2022. Tính chung trong 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm đạt 102,42 triệu USD, giảm 41,7% so với cùng kỳ năm 2022.

Về thị trường, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm của Việt Nam sang thị trường EU trong tháng 2/2023 đạt 15,79 triệu USD, tăng 13,8% so với tháng 01/2023, nhưng giảm 2,8% so với tháng 2/2022. Tính chung trong 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm sang EU đạt 29,62 triệu USD, giảm 31,8% so với cùng kỳ năm 2022. Trong số các mặt hàng thủ công mỹ nghệ EU nhập khẩu từ Việt Nam thì mây tre là mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất.

Đối với thị trường Hoa Kỳ, tháng 2/2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm sang thị trường này đạt 19,335 triệu USD, tăng 28,1% so với tháng 1/2023; giảm 36,8% so với tháng 2/2022. Tính chung trong 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm sang Hoa Kỳ đạt 34,45 triệu USD, giảm 55,4% so với cùng kỳ năm 2022.

Thời gian qua, lạm phát toàn cầu đặc biệt ở các các thị trường xuất khẩu chính như thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, khiến sức mua của người tiêu dùng giảm. Tăng trưởng xuất khẩu năm 2023 sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như diễn biến xung đột tại Ukraina, tình hình kiềm chế lạm phát, diễn biến kinh tế ở các thị trường có quy mô nhập khẩu lớn trên thế giới.

Về phía cung, tác động từ mở cửa nền kinh tế sau kiểm soát dịch Covid-19 của Trung Quốc có thể làm hàng hoá Việt Nam phải gặp cạnh tranh nhiều hơn tại các thị trường xuất khẩu.

Mặc dù vậy, cũng có nhiều yếu tố tích cực đối với hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ nói riêng như các Hiệp định thương mại tự do (FTA) tiếp tục thực thi lộ trình cắt giảm thuế quan.

Tuy nhiên, để nắm bắt cơ hội mở rộng thị trường, các cơ sở, doanh nghiệp làng nghề cần trang bị những nền tảng cơ bản theo yêu cầu thị trường, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các sàn thương mại điện tử, công nghệ truy xuất nguồn gốc.

Nguồn: congthuong

Xuất khẩu thủy sản quý I/2023 đạt trên 1,8 tỷ USD, giảm 27%

Theo Tổng cục Hải quan, ước xuất khẩu thủy sản quý I/2023 sẽ đạt khoảng 1,85 tỷ USD, giảm 27% so với quý I/2022.

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính đến giữa tháng 3/2023, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,4 tỷ USD, giảm 28% so với cùng kỳ năm ngoái. Ước xuất khẩu thủy sản quý I/2023 sẽ đạt khoảng 1,85 tỷ USD, giảm 27% so với quý I/2022.

Xuất khẩu thủy sản quý I/2023 đạt trên 1,8 tỷ USD

Riêng tháng 3/2022, xuất khẩu thủy sản ước đạt 780 triệu USD, giảm 245 so với cùng kỳ năm 2022. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực vẫn giảm 8 – 39%. Trong đó, xuất khẩu tôm giảm 39%, cá tra giảm 23%, cá ngừ giảm 33%, mực bạch tuộc giảm 8%. Tuy nhiên, xuất khẩu các loài cá biển khác vẫn tăng trưởng dương 11% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tính đến hết quý I/2023, xuất khẩu tôm mang về 577 triệu USD, giảm 40%, cá tra đạt 447 triệu USD, thấp hơn 32% so với cùng kỳ và cá ngừ giảm 31% đạt 179 triệu USD. Xuất khẩu mực, bạch tuộc cũng thấp hơn 8% so với cùng kỳ đạt 54 triệu USD. Riêng xuất khẩu các loài cá biển vẫn tăng nhẹ 3% đạt 435 triệu USD.

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho hay, thị trường thế giới vẫn bị tác động nặng nề bởi lạm phát, kinh tế suy giảm khiến nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu giảm và giá nhập khẩu cũng giảm theo.

Dự báo, xuất khẩu thủy sản sẽ hồi phục dần từ quý II sau khi diễn ra các chương trình hội chợ quốc tế tại Mỹ và EU thu hút thêm các bạn hàng đến với Việt Nam.

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cũng nhận định, trong nửa đầu năm 2023 xuất khẩu tôm sẽ hồi phục chậm vì cạnh tranh gay gắt với Ấn Độ, Ecuador, Indonesia. Xuất khẩu cá tra sẽ khả quan hơn trong bối cảnh lạm phát và kinh tế suy giảm ở nhiều thị trường và có thêm cơ hội lớn sau khi Trung Quốc mở cửa trở lại hoàn toàn sau Covid.

Xuất khẩu các loài cá biển tiếp tục tăng, trong đó có đóng góp ngày càng lớn của hàng gia công, xuất khẩu và hàng sản xuất xuất khẩu từ nguyên liệu nhập khẩu như cá hồi, cá tuyết cod, cá minh thái. Tại các nước đang có xu hướng tăng tiêu thụ các sản phẩm truyền thống cho người tiêu dùng châu Á. Do vậy, xuất khẩu hàng khô (cá, tôm, mực), nước mắm, chả cá, đồ hộp sẽ tăng.

Trung Quốc sẽ trở thành thị trường nhập khẩu lớn nhất, nhưng áp lực cạnh tranh rất lớn vì các nhà xuất khẩu và các thương gia các nước cũng tập trung vào thị trường này sau mở cửa.

Xuất khẩu sang các thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc khó bứt phá vì lạm phát khiến người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu và giá nhập khẩu trung bình giảm so với năm trước.

Từ thực tế biến động thị trường, các doanh nghiệp thủy sản đã có điều chỉnh hợp lý các sản phẩm xuất khẩu. Ví dụ, với Trung Quốc thì ngoài sản phẩm đông lạnh, doanh nghiệp nên tận dụng lợi thế về vị trí địa lý gần để tăng xuất khẩu tôm, hải sản tươi/sống cho phân khúc nhà hàng, khách sạn, du lịch.

Với các thị trường lớn khác như Mỹ, EU, doanh nghiệp quan tâm hơn đến xu hướng nhập khẩu hàng cho các siêu thị châu Á, nghĩa là các dòng sản phẩm truyền thống của người châu Á vẫn đang hút khách: hàng khô, nước mắm, mắm ruốc…

Trong thời gian qua, các Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Ngoại giao đã tích cực xúc tiến nhiều chương trình xúc tiến thương mại, hội nghị, diễn đàn kết nối giao thương với một số thị trường. Các doanh nghiệp thủy sản mong muốn tiếp tục được tham gia các chương trình giao thương như vậy với các thị trường, nhất là các thị trường trọng điểm để tìm kiếm bạn hàng, đẩy mạnh xuất khẩu.

Bên cạnh đó, bối cảnh thị trường khó khăn năm 2023, doanh nghiệp rất trông chờ các cơ quan quản lý giúp tháo gỡ những khó khăn bất cập trước mắt cho doanh nghiệp để ổn định nguồn nguyên liệu và đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là chính sách và triển khai lãi suất ưu đãi cho bà con nông, ngư dân và doanh nghiệp chế biến thủy sản.

 

Nguồn: congthuong

Exit mobile version