Trong bối cảnh thị trường còn nhiều khó khăn, xuất khẩu tôm 2 tháng đầu năm chỉ đạt 350 triệu USD, nhiều doanh nghiệp tìm cách xoay xở, giữ chân khách hàng.
Đối mặt khó khăn kép
Gần 20 năm tham gia xuất khẩu, chưa khi nào Công ty CP Thủy sản Sạch Việt Nam (Vina Cleanfood) phải đối mặt với nhiều khó khăn như hiện nay. Nếu như vào thời điểm này năm ngoái, doanh nghiệp đã ký được nhiều đơn hàng xuất khẩu, thì nay vẫn đang sản xuất cầm chừng chờ đơn hàng. Theo ông Võ Văn Phục, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam, lượng nguyên liệu trong nước giảm rất mạnh. Do đó, bức tranh xuất khẩu thủy sản quý 1/2023 rất tối.
Theo ông Phục, các nhà máy thủy sản có vùng nuôi riêng nhưng chỉ đáp ứng 20-30% nhu cầu sản xuất. Vì vậy, khi sản lượng tôm ít như hiện nay, doanh nghiệp mua tôm loại 25 con/kg với giá 245.000 đồng, 30 con giá 188.000 đồng, tăng 30.000-40.000 đồng so với lúc tôm thu hoạch chính vụ.
Ông Trần Văn Lĩnh – Chủ tịch HĐQT thủy sản Thuận Phước cho biết, hiện nay nguyên liệu tôm đang giảm sút trầm trọng. Những năm trước, thời điểm này doanh nghiệp có thể thu mua mỗi ngày cả trăm tấn nguyên liệu thì giờ đây sản lượng chỉ còn 10 tấn. Khu vực phía Nam là vùng nguyên liệu tôm lớn nhất cả nước, song giờ đây cũng không đủ cung cấp cho các nhà máy phía Nam. “Hiện nhiều nhà máy chế biến thủy sản ở phía Nam đang phải làm việc luân phiên, sản xuất cầm chừng”, ông Trần Văn Lĩnh thông tin.
Xuất khẩu tôm tiếp tục đối mặt nhiều thách thức
Trên thực tế, số liệu thống kê của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) cho thấy xuất khẩu tôm giảm khá mạnh trong 2 tháng đầu năm. Riêng trong tháng 2/2023, xuất khẩu tôm Việt Nam đạt 194 triệu USD, giảm 21% so với cùng kỳ. Lũy kế 2 tháng đầu năm nay, xuất khẩu tôm đạt 335 triệu USD, giảm 40%. Xuất khẩu tôm sang các thị trường chính đồng loạt giảm từ 12%-35% so với cùng kỳ năm trước.
Ông Trương Đình Hòe – Phó Tổng Thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam lý giải về sự suy giảm này: do nhu cầu thị trường chững, lạm phát thế giới ở mức cao, tồn kho tại Mỹ nhiều, tiêu dùng tại EU thắt chặt do khó khăn kinh tế, và cũng bởi vì cùng thời điểm này năm ngoái, xuất khẩu tôm tăng quá mạnh (với 558 triệu USD, tăng 48% so với cùng kỳ 2021).
Cùng quan điểm đó, ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần thực phẩm Sao Ta cho biết, đầu năm 2023, tồn kho ở các nhà phân phối và các nhà máy chế biến không nhỏ. Điều bất thường ở vụ tôm năm nay là doanh nghiệp thiếu đơn hàng, giá bán giảm nhưng tại thời điểm này giá tôm nguyên liệu lại tăng cao kỷ lục.
Hiện nay giá tôm nguyên liệu tại Bạc Liêu, Sóc Trăng đã đạt mức 170.000 đồng/kg loại 40 con/kg. Trong khi đó giá tôm nguyên liệu của Ấn Độ cùng loại chỉ khoảng 107.000 đồng/kg.
“Ngành tôm đang đối mặt với 2 khó khăn: Nếu giá tôm nguyên liệu duy trì ở mức cao như hiện nay thì sẽ có nhiều nhà máy đóng cửa vì không thể mua cao, bán thấp. Còn ngược lại nếu giá tôm nguyên liệu giảm 1/3 cho ngang bằng giá tôm thế giới thì người nuôi tôm sẽ treo ao vì thua lỗ”, ông Hồ Quốc Lực chia sẻ.
Tận dụng từ lợi thế nhỏ nhất
Theo ông Trần Văn Lĩnh, trong bối cảnh đơn hàng sụt giảm, chi phí sản xuất tăng cao, để duy trì sản xuất, giữ chân khách hàng doanh nghiệp đang thương lượng với khách hàng chia sẻ lợi nhuận, cố gắng vượt qua giai đoạn khó khăn.
Năm 2023, ngành tôm Việt Nam đặt mục tiêu đạt diện tích 750 nghìn hecta, sản lượng tôm các loại 1.080 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu hơn 4,3 tỷ USD. Để đạt được mục tiêu này, ông Trương Đình Hòe – Phó Tổng Thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, trong bối cảnh khó khăn, các doanh nghiệp phải cải thiện tình hình bằng cách giảm chi phí, tập trung vào giá trị gia tăng, nâng cao chất lượng sản phẩm. Doanh nghiệp có thể chuyển hướng xuất khẩu các sản phẩm đặc thù như tôm-rừng, tôm-lúa hay tôm sú với lợi thế từ thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chú trọng thay đổi cơ cấu sản phẩm để chủ động đáp ứng nhu cầu theo từng phân khúc thị trường… Đồng thời, khai mở thêm các thị trường mới bên cạnh các thị trường truyền thống, nhằm tìm kiếm các đơn hàng mới.
“Bên cạnh thách thức, chúng ta vẫn có nhiều cơ hội. Các doanh nghiệp năng động, thích ứng sớm với điều kiện mới sẽ tiếp tục chiếm lĩnh được thị trường”, ông Trương Đình Hòe nhấn mạnh
Cũng theo ông Hòe, để hỗ trợ các doanh nghiệp, mới đây Vasep đã có văn bản đề nghị Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn xem xét, điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu khô đậu tương từ mức 2% về mức 0%, nhằm hỗ trợ ngành sản xuất thức ăn thủy sản nói riêng, thức ăn chăn nuôi nói chung và ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam tiếp tục củng cố vị thế là một trong những nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới.
Hiện các hoạt động thông quan hàng hóa tại tất cả cửa khẩu, lối mở ở Móng Cái ngày càng tăng cả về chủng loại hàng hóa cùng số lượng doanh nghiệp tham gia.
Theo thống kê, gần hết quý I, hàng hóa xuất nhập khẩu qua cửa khẩu Quốc tế Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh đã đạt hơn 300.000 tấn, tăng khoảng 166% so với cùng kỳ năm ngoái.
Riêng tại cửa khẩu cầu Bắc Luân II, lượng hàng hóa xuất nhập khẩu bình quân đạt gần 2.000 tấn/ngày, tăng 70,2% so với cùng kỳ 2022, chủ yếu là hàng hoa quả, nông sản.
Còn tại lối mở km 3+4 Hải Yên, có hơn 10.300 phương tiện chở 159.000 tấn hàng hóa thông quan từ đầu năm tới nay, tăng hơn 340% so với cùng kỳ 2022 chủ yếu là thủy hải sản đông lạnh, tôm, cua, cá sống…
Theo lãnh đạo UBND thành phố Móng Cái, việc khánh thành tuyến đường cao tốc Vân Đồn-Móng Cái là điều kiện thuận lợi để thành phố phát triển. Cùng với đó việc Trung Quốc nới lỏng phòng chống dịch Covid -19 là điều kiện thuận lợi để Móng Cái phát huy tiềm năng thế mạnh, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động xuất nhập khẩu qua cửa khẩu Móng Cái
Được biết, TP Móng Cái cũng đang tập trung nhiều giải pháp nhằm thu hút các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đưa hàng hóa xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu biên giới trên địa bàn Quảng Ninh phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của tuyến cao tốc Vân Đồn – Móng Cái.
Ngành chức năng và địa phương cũng tăng cường hiệu quả công tác quản lý, kiểm soát chặt chẽ giá dịch vụ kho bãi, bốc xếp hàng hóa tại cửa khẩu, lối mở và dịch vụ, chi phí vận chuyển hàng hóa trên địa bàn, bên cạnh đó, xem xét, xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng tình hình để tăng giá, ép giá doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu.
Đồng thời, có cơ chế khuyến khích đầu tư phát triển dịch vụ kho bãi, bốc xếp, vận chuyển, logistics trên địa bàn; chỉ đạo các doanh nghiệp kinh doanh kho bãi, dịch vụ bốc xếp trong khu vực cửa khẩu, lối mở tiếp tục đầu tư, mở rộng kho bãi, nâng cấp trang thiết bị, hiện đại hóa quy trình bốc xếp, kho bảo quản, rút ngắn tối đa thời gian sang tải cho doanh nghiệp.
Chi cục Hải quan Cửa khẩu Móng Cái cũng tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, hỗ trợ doanh nghiệp. Tổ chức gặp mặt các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để nắm rõ tình hình khó khăn, cùng trao đổi, thống nhất về phương án lưu thông hàng hóa trong tình hình mới; tăng cường sử dụng trang thiết bị hiện đại trong công tác giám sát hàng hóa, phương tiện.
Xuất khẩu nhóm hàng hoá, sản phẩm chế biến thành phẩm có giá trị gia tăng cao của Việt Nam vào thị trường Israel đang có nhiều lợi thế.
Đặc biệt với Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Israel được ký kết trong tương lai sẽ mở ra nhiều cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường này.
Đặc thù về thị trường Israel và những mặt hàng, sản phẩm xuất khẩu có lợi thế của Việt Nam.
Mặc dù dung lượng thị trường khiêm tốn, với quy mô dân số xấp xỉ 9,7 triệu người, nhưng hoạt động kinh tế và ngoại thương của Israel khá phát triển. Năm 2022, thu nhập đầu người đạt xấp xỉ 55.000 USD; kim ngạch ngoại thương đạt 173 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 67 tỷ USD và nhập khẩu đạt 106 tỷ USD. Hàng năm, Israel có nhu cầu nhập khẩu nhiều loại hàng hóa để đáp ứng nhu cầu ở trong nước. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Israel gồm máy móc, thiết bị, phụ tùng, nguyên vật liệu,hàng tiêu dùng, hàng đầu tư, nhiên liệu xăng dầu, kim cương thô…
Về nhóm hàng tiêu dùng, mỗi năm Israel nhập khẩu đạt 25 tỷ USD, cụ thể bao gồm các mặt hàng như: lương thực thực phẩm, đồ uống các loại, quần áo, giày dép, nội thất, hàng điện tử, thiết bị điện, hàng gia dụng, dược phẩm….
Là đất nước có đặc trưng tôn giáo và sắc tộc, các doanh nghiệp người Do Thái thường yêu cầu người xuất khẩu phải có chứng nhận Kosher, trong khi các doanh nghiệp người Ả-rập có thể yêu cầu người xuất khẩu phải có chứng nhận Halal, đối với một số chủng loại hàng hóa nhất định, chủ yếu đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng. Đây là hai loai chứng nhận mang tính chất tôn giáo và thường phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể của người nhập khẩu theo từng lần giao dịch hoặc từng lô hàng mua bán.
Nhìn chung, các doanh nghiệp Israel kinh doanh năng động, thích ứng nhanh với biến động thị trường, làm ăn khá bài bản và nghiêm túc, giao dịch nhanh, luôn chủ động tìm kiếm đối tác bạn hàng qua nhiều kênh khác nhau, có nhu cầu đa dạng và sức mua ổn định, khả năng thanh toán cao và cơ bản sòng phẳng, sẵn sàng đặt cọc hoặc trả tiền trước, thích gặp gỡ trực tiếp đối tác bạn hàng và đến tận nơi xem hàng hóa tại nhà máy sản xuất, thường tiếp cận đối tác cung cấp riêng biệt theo nhóm lẻ và tránh đi theo nhóm đông, muốn mua hàng trực tiếp của nhà sản xuất và không muốn qua trung gian.
Quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Israel trong những năm qua phát triển tốt đẹp. Hai bên đã ký Hiệp định về hợp tác kinh tế thương mại vào năm 2004; thành lập Ủy ban liên Chính phủ với các kỳ họp được tổ chức luân phiên tại mỗi nước, góp phần tạo cơ chế thúc đẩy hợp tác trao đổi thương mại. Hai bên đang đàm phán Hiệp định Thương mại tự do song phương và đã trải qua 12 vòng đàm phán. Trao đổi thương mại hai chiều không ngừng tăng nhanh từ 1,58 tỷ USD trong năm 2020 lên 1,89 tỷ USD trong năm 2021 và đạt 2,23 tỷ USD trong năm 2022, tăng 17,85% so với năm trước đó.
Trong cán cân thương mại, Việt Nam đang nhập siêu từ Israel do chúng ta nhập khẩu nhóm hàng máy tính, linh kiện và bo mạch điện tử với trị giá lớn; đây là nhóm hàng do các công ty có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam nhập khẩu trong chuỗi hệ thống đa quốc gia của họ để tiến hành, phục vụ sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn thiện tại Việt Nam và xuất khẩu trở lại ra thị trường các nước trên thế giới.
Hiện tại, Israel là đối tác thương mại lớn thứ 5 và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam tại khu vực Trung Đông (sau UAE và Thổ Nhĩ Kỳ). Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giữa hai nước có tính chất bổ sung cho nhau, những mặt hàng Israel cần nhập khẩu cũng là những mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam và ngược lại.
Những năm gần đây, Việt Nam xuất khẩu sang Israel đạt trên dưới 780 triệu USD/năm. Cụ thể, năm 2021 xuất khẩu tăng 14,2% so với năm trước đó và năm 2022 xuất khẩu sang Israel đạt 785,7 triệu USD. Xét trên dung lượng thị trường, trị xuất khẩu của Việt Nam sang Israel/quy mô 9,7 triệu dân sở tại đạt tỷ lệ khá cao. Hiện xuất khẩu của Việt Nam đã khôi phục đà tăng trưởng sang thị trường này.
Trong 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu sang Israel đạt 125,5 triệu USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Dự kiến, nếu tình hình thị trường diễn biến thuận lợi, xuất khẩu của Việt Nam sang Israel trong cả năm 2023 có thể đạt khoảng 850 triệu USD.
Về cơ cấu mặt hàng, mỗi năm có khoảng trên dưới 70 diện mặt hàng các loại của Việt Nam được xuất khẩu sang Israel.Năm 2022, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm có điện thoại di động và linh kiện đạt 293,2 triệu USD, hàng thủy hải sản đạt 80,4 triệu USD (gồm tôm, mực đông lạnh, cá ngừ đóng hộp, cá tra…), nông sản các loại (như hạt điều đạt 59,8 triệu USD, cà phê đạt 24,3 triệu USD, gia vị các loại…), giày dép đạt 92,3 triệu USD, hàng dệt may đạt 32,8 triệu USD.
Doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều dư địa gia tăng xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Israel
Ngoài ra, còn có các mặt hàng xuất khẩu khác như: hàng điện tử, máy móc thiết bị điện, hàng gia dụng, đồ nhà bếp, nước giải khát, lương thực thực phẩm chế biến sẵn thuộc nhóm hàng khô, bánh kẹo, trái cây chế biến sấy khô và đóng hộp…
Trong năm 2022, điện thoại di động và linh kiện là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất, chiếm tỷ trọng 37,3%. Các mặt hàng còn lại thuộc nhóm hàng lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng gia dụng, quần áo, giày dép, hàng điện tử… chiếm tỷ lệ 62,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Israel. Cà phê, hàng dệt may, giày dép là các mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng mạnh từ 20%-50%.
Đối với nhóm hàng thủy hải sản, hàng năm, Israel thuộc trong Top 22 thị trường hàng đầu trong số trên 100 thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Đáng chú ý, trong năm 2022, xuất khẩu cá ngừ sang Israel đạt 36,63 triệu USD và Israel đứng thứ 4 trong số 10 thị trường nhập khẩu cá ngừ lớn nhất của Việt Nam (sau Mỹ, Canada và Nhật Bản); xuất khẩu mực đông lạnh sang thị trường này đạt 23,22 triệu USD, chiếm tỷ trọng 1,7% xuất khẩu mặt hàng này của cả nước và Israel đứng thứ 8 trong số 10 thị trường nhập khẩu mực và bạch tuộc hàng đầu của Việt Nam; xuất khẩu tôm đông lạnh sang Israel đạt khoảng 21 triệu USD và Israel đứng thứ 20.
Các mặt hàng cá ngừ đóng hộp, tôm và mực đông lạnh, cá tra, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, quần áo, giày dép… đã có chỗ đứng ổn định trên thị trường và được người tiêu dùng Israel ưa chuộng, đánh giá cao. Ngoài ra, mặt hàng gạo thơm, hạt dài, loại 5% tấm, đóng bao 5 kg; các loại thực phẩm khô, chế biến sẵn, trái cấy chế biến sấy khô hoặc đóng hộp(xoài, chuối, chanh dây, thanh long, dứa), rau củ quả sấy khô, bánh kẹo, nước giải khát các loại… tiếp tục xâm nhập với số lượng và trị giá chưa lớn nhưng bước đầu được phân phối trên thị trường Israel.
Hiện các doanh nghiệp Israel ngày càng quan tâm tới thị trường và đối tác Việt Nam, coi Việt Nam là một trong những nguồn cung cấp hàng hóa ổn định quan trọng tại châu Á (nhất là đối với nhóm hàng nông sản, thủy hải sản, lương thực thực phẩm chế biến, nước giải khát, hàng gia dụng, sản phẩm và thiết bị điện tử, hàng tiêu dùng…) để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở trong nước.
Những vấn đề cần lưu ý để nâng cao hơn nữa giá trị xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Israel trong giai đoạn tới
Thứ nhất, bên cạnh những thị trường truyền thống, chúng ta cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng các thị trường mới, thị trường ngách, thị trường ở xa… Hiệp định Thương mại tự do song phương với Israel đang được đàm phán giai đoạn cuối. Vòng đàm phán gần đây nhất đã diễn ra tại Hà Nội vào đầu tháng 1/2023. Hai bên đang tích cực hoàn tất chuẩn bị để tiến đến sớm kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định Thương mại tự do song phương giữa hai nước trong thời gian tới, qua đó góp phần mở cửa thị trường, giảm thuế, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tiếp tục tiếp cận và thâm nhập mạnh hơn nữa vào thị trường Israel.
Thứ hai, mặc dù dung lượng thị trường khiêm tốn nhưng nhu cầu nhập khẩu khá lớn, vòng quay tiêu dùng ở thị trường Israel nhanh, thể hiện ở trị giá nhập khẩu hàng hóa tăng mạnh hàng năm. Tập quán và thói quen kinh doanh của các doanh nghiệp Israel là muốn mua hàng thành phẩm, đã qua chế biến, có giá trị gia tăng cao, được đóng gói sẵn bao bì hoàn chỉnh, nhất là đối với nhóm hàng lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng (thủy hải sản, hạt điều, cà phê, hạt tiêu, nước giải khát, bánh kẹo, quế, dệt may, giày dép các loại…), kể cả hàng điện tử và hàng gia dụng, để mang về đưa vào các kênh phân phối hoặc chuỗi siêu thị bán lẻ cho người tiêu dùng có thể sử dụng được ngay sau khi mua hàng. Đây chính là những yếu tố thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam tranh thủ khai thác cơ hội xuất khẩu hàng hóa có giá trị gia tăng cao sang thị trường Israel.
Thứ ba, đối với tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, Israel yêu cầu hàng hóa nhập khẩu phải tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn bản địa nhiều khi mang tính chất đặc thù. Bên cạnh đó, Israel cũng áp dụng theocác tiêu chuẩn của EU, Mỹ và thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát khá nghiêm ngặt.Để tăng cường nguồn cung cấp hàng hóa từ bên ngoài và tính cạnh tranh trên thị trường, Israel đã thực hiện một số cải cách nhập khẩu và tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế được công nhận ở những nước phát triển.
Về việc này, Thương vụ Việt Nam tại Israel đã xuất bản các ấn phẩm Sổ tay các quy định, tiêu chuẩn nhập khẩu nông sản và thực phẩm vào Israel trong năm 2021; ấn phẩm Sổ tay rà soát chính sách nhập khẩu mới của Israel trong năm 2022. Các doanh nghiệp có thể tham khảo các ấn phẩm này đã được Thương vụ đăng tải công bố trên các trang mạng Internet.
Thứ tư, thời gian qua, Thương vụ thường xuyên cung cấp các thông tin về diễn biến thị trường, các thay đổi về chính sách thương mại và quy định nhập khẩu mới, xuất bản các ấn phẩm hướng dẫn doanh nghiệp, định hướng mặt hàng xuất khẩu, cơ hội giao thương, trực tiếp giới thiệu đối tác bạn hàng, đăng tải danh sách các công ty kinh doanh của Israel có nhu cầu tìm kiếm nhà cung cấp và đối tác tại Việt Nam, giúp xác minh thẩm tra tư cách pháp nhân, tổ chức các sự kiện xúc tiến thương mại và kết nối giao thương, tham dự các triển lãm giới thiệu quảng bá mặt hàng xuất khẩu và doanh nghiệp Việt Nam để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường và thiết lập quan hệ hợp tác kinh doanh với đối tác tại Israel.
Thứ năm, doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu Việt Nam cần chú trọng chào hàng các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao, với giá cả cạnh tranh sát thực và chất lượng phù hợp, trả lời nhanh chóng các giao dịch với khách hàng người mua Israel, tuân thủ các yêu cầu về tiêu chuẩn và quy định nhập khẩu của Israel mới ban hành.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực quan tâm, đầu tư khai thác thị trường Israel; cụ thể là chủ động sang khảo sát, tìm hiểu thị trường, tham dự các hội chợ, triển lãm, sự kiện xúc tiến thương mại, kết nối giao thương được tổ chức tại Israel, trực tiếp gặp gỡ đối tác bạn hàng để phát hiện ra nhu cầu hợp tác của nhau, qua đó góp phần thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần thường xuyên theo dõi sát những diễn biến về an ninh chính trị tại Israel, do đây là địa bàn nhạy cảm về các xung đột và bất ổn có ảnh hưởng tới toàn bộ khu vực, để có đối sách kịp thời về các giao dịch ký kết hợp đồng mua bán, chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu và bảo đảm lợi ích kinh doanh.
Cuối cùng, trong trường hợp cần thiết, các doanh nghiệp nên liên hệ với Thương vụ – Đại sứ quánViệt Nam tại Israel để được hỗ trợ và tư vấn kịp thời cũng như được cung cấp các thông tin hữu ích khi giao dịch, hợp tác kinh doanh với các đối tác bạn hàng tại thị trường Israel.
Trên đây là những nội dung doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý khi giao dịch, làm ăn với thị trường, các đối tác và xuất khẩu hàng hóa sang Israel./.
Thương vụ Việt Nam tại Indonesia thông tin, sau phiên họp do Tổng thống Joko Widodo chủ trì bàn thảo về đảm bảo lương thực, thực phẩm và công tác chuẩn bị cho kỳ nghỉ lễ hồi giáo Idul Fitri năm 1444H (2023), ngày 27/03/2023, nước này quyết định sẽ nhập khẩu 2 triệu tấn gạo dự trữ quốc gia trong năm 2023.
Indonesia tăng nhập khẩu mở ra cơ hội cho gạo Việt Nam
Lượng gạo dự trữ quốc gia nhập khẩu sẽ được sử dụng vào chương trình bình ổn giá gạo, hỗ trợ gạo cho 21,53 triệu hộ nghèo và sử dụng cho các mục đích khác. Cơ quan hậu cần quốc gia-Preum Bulog tiếp tục được chỉ định là đầu mối nhập khẩu trong đó 500.000 tấn sẽ được thực hiện sớm nhất có thể.
Indonesia vừa qua đã quyết định gia tăng lượng gạo thu mua dự trữ lên 2,4 triệu tấn thay vì khoảng 1,2 triệu tấn như hiện nay nhằm đảm bảo an ninh lương thực. Tình hình thu mua gạo dự trữ trong nước hiện đang gặp rất nhiều khó khăn mặc dù nước này đang ở vụ thu hoạch chính. Indonesia có kế hoạch thu mua 70% lượng gạo trong tổng số 2,4 triệu tấn trong vụ thu hoạch chính (từ tháng 02 đến tháng 04).
Theo Cơ quan hậu cần quốc gia, cơ quan này mới chỉ thu mua được cho đến nay 60.000 tấn trong khi lượng gạo dự trữ hiện có trong kho (tính đến trước ngày 25/03/2023) chỉ còn vào khoảng 280 nghìn tấn. Các chuyên gia nhận định, sự khó khăn trong việc thu mua bắt nguồn từ việc nguồn cung nội địa khan hiếm do lượng lúa gạo thu hoạch thấp hơn dự kiến do ảnh hưởng của thời tiết mưa nhiều trong những tháng đầu năm 2023, sự thiếu chính xác về số liệu thống kê diện tích gieo trồng cũng như cơ chế thu mua do nhà nước ấn định giá bất cập, không theo cơ chế thị trường. Mặc dù vào ngày 11/3/2023, Indonesia đã tăng giá thu mua đối với thóc trực tiếp từ nông dân lên 5.000 Rp/kg từ mức 4,200 Rp/kg và ấn định giá bán lẻ gạo cao nhất (giá điều chỉnh tăng theo từng vùng, trong đó vùng có mức tăng thấp nhất đối với gạo phẩm cấp trung bình có mức giá mới là 10,900 Rp/kg so với mức 9,450 Rp/kg trước đó và giá gạo phẩm chất cao tăng lên 13,900 Rp/kg).
Giá thu mua hiện nay của nhà nước thấp hơn giá thu mua của khu vực tư nhân và giá gạo bán lẻ thực tế tại các chợ truyền thống cao hơn giá bán lẻ cao nhất do nhà nước ấn định.
Giá gạo bán lẻ trên thị trường nội địa Indonesia trong tháng 03/2023 vẫn đang có xu hướng gia tăng. Theo thống kê của Trung tâm thông tin giá lương thực Indonesia, tính từ 01-20/3/2023, giá bán lẻ trung bình đối với gạo phẩm cấp thấp đã tăng thêm 150 Rp/kg tương đương 1,24% lên mức 12,250 Rp/kg; gạo phẩm cấp trung bình tăng thêm 50 rp/kg tương đương 0,38% lên mức 13.200 Rp/kg; gạo phẩm cấp cao ổn định ở mức 14.200-14.700 Rp/kg (tùy theo phẩm cấp). (Tỷ giá bình quân 1USD đổi 15.200 Rp)
Bộ Nông nghiệp Indonesia cho biết trong năm 2023 nước này phấn đấu đề ra mục tiêu sản xuất 54,5 triệu tấn thóc tương đương với 32,07 triệu tấn gạo tương đương với mục tiêu năm 2022. Indonesia hiện đang trong vụ thu hoạch lúa chính của cả năm. Theo Cơ quan thống kê Indonesia, sản lượng thóc thu hoạch của nước này trong từ tháng 01-04/2023 ước đạt 23,82 triệu tấn tương đương với 13,79 triệu tấn gạo, tăng 0,56% so với cùng kỳ năm 2022. Bộ Nông nghiệp Indonesia dự báo hiện tượng EL Nino có thể xảy ra gây hạn hán vào từ tháng 5-7/2023 vì vậy có khả năng sẽ ảnh hưởng tới diện tích và sản lượng ở vụ thu hoạch tháng 7&8/2023.
Để có thể cung ứng với số lượng gạo nhiều nhất cho đợt thu mua tới đây của Indonesia, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam đặc biệt là là các doanh nghiệp đã và đang cung cấp gạo dự trữ quốc gia cho Indonesia cần chủ động sớm tiếp cận Cơ quan dịch vụ hậu cần quốc gia Indonesia (Preum Bulog) để quảng bá sản phẩm của mình.
Sau 03 năm không phải nhập gạo dự trữ quốc gia, năm 2022 Indonesia đã nhập khẩu 500.000 tấn, và năm 2023 là 2 triệu tấn.
Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, trong 02 tháng đầu năm 2023, Indonesia là thị trường nhập khẩu khẩu gạo lớn thứ 03 của Việt Nam sau Philipines và Trung Quốc. Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sang Indonesia trong 02 tháng đầu năm 2023 đạt 143.786 tấn, tương đương 67,31triệu USD, giá bình quân 468 USD/tấn, tăng mạnh 33.732% về lượng và tăng 30.355% kim ngạch nhưng giảm 10% về giá so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 16% trong tổng lượng và chiếm 14,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.
Theo Báo cáo về tình hình xuất nhập khẩu gạo của Việt Nam năm 2022 và định hướng năm 2023 của Bộ Công Thương, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục giữ đà tăng trưởng trong 2 tháng đầu năm 2023, nhiều thời điểm trong các tháng, giá gạo xuất khẩu 5% tấm đứng đầu thế giới, cao hơn giá gạo cùng chủng loại của Thái Lan và Ấn Độ. Năm 2023, Bộ Công Thương cũng dự báo xuất khẩu gạo Việt Nam đạt khoảng 7 triệu tấn, trị giá gần 4 tỷ USD.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cho biết, tháng 2/2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hà Lan đạt 4,1 nghìn tấn, trị giá 10,11 triệu USD, tăng 24,1% về lượng và tăng 18,1% về trị giá so với tháng 1/2023, so với tháng 2/2022 tăng 110,3% về lượng và tăng 136,6% về trị giá.
Xuất khẩu cà phê sang Hà Lan tăng mạnh về giá trị
Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê sang thị trường Hà Lan đạt 7,42 nghìn tấn, trị giá 18,77 triệu USD, tăng 93,1% về lượng và tăng 105,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Tháng 2/2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam sang thị trường Hà Lan đạt mức 2.461 USD/ tấn, giảm 4,8% so với tháng 1/2023, nhưng tăng 12,5% so với tháng 2/2022. Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam sang Hà Lan đạt mức 2.517 USD/tấn, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2022.
Trước đó, trong tháng 1/2023, Việt Nam xuất khẩu cà phê Robusta sang Hà Lan đạt 2,53 nghìn tấn, trị giá 5,02 triệu USD, giảm 20% về lượng và giảm 19,9% về trị giá so với tháng 12/2022, nhưng tăng mạnh 60,6% về lượng và tăng 56,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Xuất khẩu cà phê Arabica sang Hà Lan đạt 709 tấn, trị giá 2,97 triệu USD, giảm 25,1% về lượng và giảm 26,5% về trị giá so với tháng 12/2022, nhưng so với tháng 1/2022 tăng mạnh 310,4% về lượng và tăng 251,1% về trị giá.
Theo số liệu từ Cơ quan Thống kê châu Âu, giai đoạn 2017 – 2021, nhập khẩu cà phê của thị trường Hà Lan từ thế giới tăng trưởng bình quân 1,01%/năm tính theo lượng và tăng 0,34%/năm tính theo trị giá, từ 261,1 nghìn tấn, trị giá 1,1 tỷ EUR năm 2017 lên xấp xỉ 262 nghìn tấn, trị giá 1,04 tỷ EUR năm 2021.
Năm 2022, nguồn cung cà phê cho Hà Lan chủ yếu từ thị trường nội khối EU, trong đó, thị trường cung cấp cà phê cho Hà Lan chủ yếu từ Bỉ, Đức, Pháp, Phần Lan, Italia. Nhập khẩu cà phê của Hà Lan từ thị trường ngoại khối EU cũng tăng trưởng 2 con số. Trong đó, Việt Nam là nguồn cung ngoại khối lớn thứ 2 cho Hà Lan.
Hà Lan hiện đứng thứ 5 thế giới về lượng tiêu thụ cà phê. Tổng giá trị tiêu thụ cà phê tại Hà Lan khoảng 3,5 tỷ euro mỗi năm. Đặc biệt, Hà Lan là cửa ngõ quan trọng trên thế giới với lượng cà phê nhập khẩu và tái xuất sang các nước khác trong khu vực.
Các chuyên gia nhận định, đối với các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ, muốn thâm nhập thị trường châu Âu, Hà Lan chính là bước khởi đầu đúng đắn và thuận lợi để mở rộng thị trường sau này.
Tuy nhiên xuất khẩu cà phê cần đảm bảo chất lượng và những yêu cầu khắt khe từ thị trường Hà Lan và châu Âu. Do đó, doanh nghiệp Việt Nam cần đảm bảo chất lượng sản phẩm, cung cấp các hạt cà phê sạch, đáp ứng chất lượng và các chỉ số mà thị trường mục tiêu yêu cầu. Tìm hiểu kỹ thị trường Hà Lan, về nhu cầu người tiêu dùng, logistics, hệ thống phân phối,… để đáp ứng đúng và đủ theo quy định.
Ớt dạng quả muốn xuất khẩu sang Hàn Quốc cần có kết quả kiểm nghiệm của 8 phòng thí nghiệm đã được Bộ An toàn Dược phẩm và Thực phẩm Hàn Quốc chấp thuận.
Theo Công hàm số KEV-23-266 của Đại sứ quán Hàn Quốc gửi Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Bộ An toàn Dược phẩm và Thực phẩm Hàn Quốc yêu cầu cá nhân, doanh nghiệp xuất khẩu ớt Việt Nam phải có kết quả kiểm nghiệm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật do các phòng thử nghiệm được Bộ này chấp thuận.
Hàn Quốc chỉ chấp thuận kết quả kiểm nghiệm ớt từ 8 đơn vị
Tính đến hết tháng 2/2023, Bộ An toàn Dược phẩm và Thực phẩm Hàn Quốc chấp thuận 8 phòng thí nghiệm gồm: 6 Trung tâm Chất lượng nông lâm thủy sản vùng 1-6, đóng tại Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hòa, TP. Hồ Chí Minh, Cà Mau, Cần Thơ; cùng 2 phòng thí nghiệm độc lập là Công ty Intertek chi nhánh Cần Thơ và Công ty SGS Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh.
Ớt dạng quả, muốn xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc cần có kết quả kiểm nghiệm của 8 phòng thí nghiệm trên kèm theo lô hàng xuất khẩu. Thời gian tạm thời áp dụng các yêu cầu kiểm tra nêu trên là 1 năm, bắt đầu từ ngày 31/3/2023 đến hết 30/3/2024.
Hàn Quốc hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 2 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang Hàn Quốc đạt 3,79 tỉ USD, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm 7,6% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Xứ kim chi cũng là thị trường lớn duy nhất có kim ngạch tăng trưởng dương, trong khi xuất khẩu sang một số thị trường khác như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc… đều bị sụt giảm.
Theo Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam, năm 2022, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 4.900 tấn ớt, với kim ngạch đạt 11,9 triệu USD. So với năm 2021, cả giá trị lẫn sản lượng xuất khẩu ớt của nước ta đều giảm.
Cùng với hồ tiêu, quế, hồi, gừng, nghệ… ớt được xếp vào nhóm gia vị. Thị trường chính của mặt hàng này có Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước Ả Rập, Ấn Độ và Nga.
Tính chung quý I năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 154,27 tỷ USD; cán cân thương mại xuất siêu 4,07 tỷ USD.
Xuất nhập khẩu hàng hóa suy giảm
Quý I/2023, bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm với chính sách thắt chặt tiền tệ ở nhiều quốc gia làm suy giảm nhu cầu tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn đã ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Theo thông tin Tổng cục Thống kê công bố, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng Ba ước đạt 58,49 tỷ USD, tăng 18,6% so với tháng trước và giảm 13% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 154,27 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 11,9%; nhập khẩu giảm 14,7%.
Nhu cầu tiêu dùng suy giảm khiến xuất nhập khẩu khó khăn
Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, bộ ngành và địa phương cùng với với sự nỗ lực của các doanh nghiệp xuất khẩu nên cán cân thương mại hàng hóa quý I năm 2023 ước tính xuất siêu 4,07 tỷ USD.
Cụ thể, ở chiều xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 3/2023 ước đạt 29,57 tỷ USD, tăng 13,5% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 7,33 tỷ USD, tăng 12,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 22,24 tỷ USD, tăng 13,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 3 giảm 14,8%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 16%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 14,4%.
Tính chung quý I năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 79,17 tỷ USD, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 19,26 tỷ USD, giảm 17,4%, chiếm 24,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 59,91 tỷ USD, giảm 10%, chiếm 75,7%.
Trong quý I năm 2023 có 14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 77,4% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 04 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 52,8%).
Nhóm hàng nông sản, lâm sản ước đạt 6,07 tỷ USD
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu quý I năm 2023, nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản ước đạt 1,07 tỷ USD, chiếm 1,3%; nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 70,24 tỷ USD, chiếm 88,7%; nhóm hàng nông sản, lâm sản ước đạt 6,07 tỷ USD, chiếm 7,7%; nhóm hàng thủy sản ước đạt 1,79 tỷ USD, chiếm 2,3%.
Nhập khẩu chủ yếu phục vụ sản xuất
Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2023 ước đạt 28,92 tỷ USD, tăng 24,4% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 10,72 tỷ USD, tăng 35,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 18,2 tỷ USD, tăng 18,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Ba giảm 11,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 7,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 13%.
Tính chung quý I năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 75,1 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 26,03 tỷ USD, giảm 13,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 49,07 tỷ USD, giảm 15,4%.
Trong quý I năm 2023 có 17 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 75,1% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 02 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 37,6%).
Hàng hóa nhập khẩu về vẫn chủ yếu phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước khi nhóm hàng tư liệu sản xuất ước đạt 70,22 tỷ USD, chiếm 93,5%, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 43,8%; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 49,7%. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng quý I chỉ đạt 4,88 tỷ USD, chiếm 6,5% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Về thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa quý I năm 2023, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 20,6 tỷ USD. Tiếp sau là Trung Quốc với kim ngạch ước đạt 23,6 tỷ USD.
Đáng chú ý, trong quý I năm 2023, xuất siêu sang Mỹ ước đạt 17,5 tỷ USD, giảm 23,4% so với cùng kỳ năm trước. Các Hiệp định thương mại tự do (FTA) vẫn mang lại hiệu quả tích cực khi xuất siêu sang EU ước đạt 6,9 tỷ USD. Con số này cho thấy EU vẫn là thị trường lớn và đầy tiềm năng của hàng hóa Việt Nam.
Với kim ngạch xuất nhập khẩu như vậy, cán cân thương mại hàng hóa tháng 3 ước tính xuất siêu 0,65 tỷ USD. Tính chung quý I năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 4,07 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 1,9 tỷ USD).
Bộ Công Thương tích cực tháo gỡ khó khăn cho xuất nhập khẩu
Trước những diễn biến khó lường của hoạt động xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương đang tiếp tục theo dõi sát diễn biến của thị trường thế giới, tham mưu, đề xuất các khung khổ hợp tác, các giải pháp để đồng thời phát triển thị trường truyền thống và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các FTA đã ký kết khai thác hiệu quả các thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu…
Mới đây nhất, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Quyết định số 165/QĐ-TTg ngày 28/02/2023 phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương đến năm 2030. Theo đó, Quyết định đặt ra mục tiêu duy trì thặng dư cán cân thương mại với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn cao hơn nhập khẩu và tăng bình quân khoảng 6 – 8%/năm.
Để hoàn thành mục tiêu đó, Bộ Công Thương xác định tiếp tục đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu, chú trọng phát triển xuất khẩu qua thương mại điện tử xuyên biên giới, hệ thống phân phối nước ngoài và đẩy mạnh phát triển thương hiệu hàng Việt Nam, gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng chế biến sâu, công nghệ cao và tỷ lệ nội địa hóa lớn; phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới, tạo sự đột phá như các sản phẩm Halal sang các thị trường Hồi giáo, sản phẩm Kosher sang thị trường Do thái, hàng hóa môi trường và các bon thấp…
Bên cạnh đó, phát triển thương mại điện tử thành một kênh phân phối quan trọng, hỗ trợ tích cực trong tiêu thụ hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa nông sản, hàng công nghiệp tiêu dùng; phát triển các trung tâm tiêu dùng mới. Số hóa các hoạt động xúc tiến thương mại.
Đặc biệt, chú trọng nâng cấp và phát triển các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của các ngành dựa trên các lợi thế so sánh ở cấp độ quốc gia, vùng và địa phương để nâng cao giá trị gia tăng, tăng cường năng lực tự chủ của ngành Công Thương. Cụ thể, trong hoạt động xuất nhập khẩu, tiếp tục nâng cấp và phát triển hoàn chỉnh hệ sinh thái xuất nhập khẩu nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển đồng bộ và hiệu quả hệ thống hạ tầng logictics phục vụ xuất nhập khẩu nhằm tối ưu hóa kết nối sản xuất và thương mại, đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và logistics của khu vực.
Tiếp tục nâng cao khả năng đáp ứng quy định, tiêu chuẩn cao về chất lượng của các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các yêu cầu về bảo vệ môi trường, các bon thấp, lao động và công đoàn. Tăng cường năng lực xuất khẩu cho các địa phương. Phát triển các vùng, địa bàn xuất khẩu mới gắn với quá trình cơ cấu lại các ngành công nghiệp theo hướng tập trung chuyên môn hóa.
3 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 11,19 tỷ USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng nông lâm thủy sản 3 tháng đầu năm ước đạt 20,63 tỷ USD, giảm 11,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 11,19 tỷ USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái; nhập khẩu ước đạt 9,44 tỷ USD, giảm 7,2%; toàn ngành xuất siêu 1,76 tỷ USD, giảm 39,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, xuất khẩu gạo 3 tháng đầu năm 2023 tuy giảm 19,3% về khối lượng nhưng tăng 30,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022
Riêng trong tháng 3/2023, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 4,66 tỷ USD, tăng 27,0% so với tháng 2 nhưng giảm 6,5% so với tháng 3/2022; trong đó, nhóm nông sản đạt 2,42 tỷ USD (tăng 16,3% so tháng 3/2022), lm sản đạt 1,29 tỷ USD (giảm 22,5% so tháng 3/2022), thủy sản đạt 720 triệu USD (giảm 29% so tháng 3/2022) và chăn nuôi đạt 47,4 triệu USD (tăng 44,8% so tháng 3/2022), đầu vào sản xuất đạt 182 triệu USD (giảm 3,9% so tháng 3/2022) và muối đạt 0,4 triệu USD giảm 29,2% so tháng 3/2022).
Tính chung 3 tháng đầu năm, nhiều mặt hàng xuất khẩu chính có giá trị xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm ngoái nên kim ngạch xuất khẩu ước đạt 11,19 tỷ USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong đó, xuất khẩu nhóm nông sản đạt 5,73 tỷ USD, tăng 3,8%; lâm sản đạt 3,11 tỷ USD, giảm 28,3%; thủy sản đạt 1,7 9 tỷ USD, giảm 29,0%; chăn nuôi đạt 115 triệu USD, tăng 46,5%; đầu vào sản xuất đạt 458 triệu USD, giảm 26,8% và muối đạt 0,9 triệu USD, giảm 31,3%.
Những mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái gồm: gạo đạt 952 triệu USD (tăng 30,2%); nhóm rau quả đạt 935 triệu USD (tăng 10,6%); hạt điều đạt 708 triệu USD (tăng 14,2%); sữa và SP sữa đạt 33,3 triệu USD (tăng 22,2%); thịt, phụ phẩm 37 tỷ USD (tăng 80,1%),…
Ở chiều ngược lại, những mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm ngoái gồm: cà phê đạt 1,27 triệu USD (giảm 2,3%), cao su đạt 552 triệu USD (giảm 22,9%), chè đạt 35 triệu USD (giảm 22,9%), hạt tiêu đạt 239 triệu USD (giảm 3,8%), cá tra đạt 422 triệu USD (giảm 33,1%), tôm đạt 578 triệu USD (giảm 39,4%), gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,88 tỷ USD (giảm 28,3%), sản phẩm mây, tre, cói thảm đạt 172 triệu USD (giảm 34,9%).
Về thị trường xuất khẩu, 3 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu đạt 2,4 tỷ USD (chiếm 21,5% thị phần); đứng thứ 2 là Hoa Kỳ đạt 2,04 tỷ USD (chiếm 18,2%); thứ 3 là Nhật Bản với giá trị xuất khẩu đạt 936 triệu USD (chiếm 8,4%); thứ 4 Hàn Quốc với giá trị xuất khẩu đạt 528 triệu USD (chiếm 4,7%).
Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản giảm, thặng dư thương mại giảm so với cùng kỳ năm ngoái, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nguyên nhân là do kinh tế toàn cầu năm 2023 dự báo tăng trưởng chậm lại; ảnh hưởng từ xung đột quân sự Nga – Ukraine; tình trạng lạm phát cao tại một số nước trên thế giới đã làm giảm nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu nhập khẩu. Thêm vào đó, do sau khi dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát, nhiều nước tái xuất khẩu nông sản và tăng cung trên thị trường; trong khi ở trong nước, nhiều doanh nghiệp chưa ký được đơn hàng xuất khẩu mới năm 2023. Việc này đã được Bộ dự báo trước từ những tháng cuối năm 2022.
Để đẩy mạnh phát triển thị trường, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, trong thời gian tới, Bộ sẽ tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh và biến động thị trường trong nước và thế giới.
Tận dụng các FTAs, đặc biệt là Hiệp định CPTPP, EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản chủ lực, hỗ trợ doanh nghiệp ký kết đơn hàng xuất khẩu mới. Phối hợp hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở nước ngoài.
Chuẩn bị tổ chức Hội nghị các tỉnh biên giới về kết nối giao thương, thúc đẩy thương mại nông sản Việt Nam –Trung Quốc (quý II và quý III/2023); tham gia chuỗi sự kiện quảng bá nông sản chủ lực của Việt nam tại Vương quốc Anh; chuỗi sự kiện Thực phẩm và Đồ uống quốc tế tại Anh nằm trong dịp kỷ niệm 50 năm quan hệ Việt Nam – Anh (quý II/2023).
Theo số liệu thống kê của cơ quan Hải quan, trong năm 2022, kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 7,1 triệu tấn với trị giá 3,45 tỷ USD, tăng 13,8% về lượng và tăng 5,1% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2021. Giá xuất khẩu bình quân đạt 486 USD/tấn, giảm 7,7% so với mức bình quân năm 2021.
Giá xuất khẩu gạo tăng cao
Tại báo cáo của Bộ Công Thương gửi Chính phủ về tình hình xuất khẩu gạo năm 2022 và phương hướng xuất khẩu gạo năm 2023, Bộ Công Thương thông tin, Châu Á tiếp tục là thị trường khu vực xuất khẩu lớn nhất trong năm 2022, đạt 4,96 triệu tấn, chiếm gần 71% trong tổng lượng xuất khẩu, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2021. Châu Phi là thị trường khu vực xuất khẩu lớn thứ hai, đạt gần 1,25 triệu tấn, chiếm 17, 8% tổng lượng xuất khẩu, tăng nhẹ 0,2% so với cùng kỳ năm 2021.
Đặc biệt, tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ khoảng 2,45% trong tổng lượng xuất khẩu nhưng khu vực thị trường châu Âu đã có tăng trưởng mạnh mẽ lên tới 90,7% so với năm 2021, đạt 172,2 nghìn tấn (xét về lượng không lớn so với các thị trường khu vực khác nhưng giá trị gia tăng lại cao do đây là thị trường tiêu thụ các sản phẩm gạo thơm chất lượng cao của Việt Nam).
Bước sang tháng 1/2023, xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 359.310 tấn gạo, mang lại 186,6 triệu USD, giá xuất khẩu trung bình 519,3 USD/tấn.
“So với tháng 1 năm 2022, giảm 29% về số lượng, giảm 24,2% trị giá nhưng tăng 6,8% về giá xuất khẩu. Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tháng 1 vẫn tiếp tục chiếm lĩnh các thị trường trọng điểm có nhu cầu tiêu thụ lớn về sản lượng” – Bộ Công Thương chỉ rõ.
Tháng đầu năm 2023, Philippines vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm 35% tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước (lượng đạt trên 129.323 tấn), giảm 44,7% so với cùng kỳ năm 2022 (do trong tháng 01 có hai kỳ nghi lễ kéo dài là Tết Dương lịch và Tết Nguyên đản). Xuất khẩu gạo sang Trung Quốc chiếm trên 13,2% trong tổng lượng với số lượng 47.424 tấn, tăng 13,2% với cùng kỳ năm 2022.
Về phía doanh nghiệp, ông Nguyễn Việt Anh, Tổng Giám đốc Công ty Lương thực Phương Đông chia sẻ, chúng tôi rất lạc quan về ngành gạo. Từ năm 2019 tới nay, ngành gạo có những lúc không còn lúa gạo để bán. Để làm được chuyện đó thì các cơ quan quản lý đã rất nỗ lực trong việc lai tạo giống để tạo ra các sản phẩm chất lượng. Công tác xúc tiến thương mại cũng được thực hiện tốt để đưa gạo ra nước ngoài.
Giá gạo Việt Nam vượt Thái Lan, Ấn Độ
Bộ Công Thương nhận định, thời gian qua, tình hình thương mại hàng hóa toàn cầu nói chung và mặt hàng gạo nói riêng đã phục hồi trở lại sau tác động của dịch Covid-19 nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn do yếu tố khó khăn từ các thị trường như tình trạng lạm phát gia tăng tại các khu vực tiêu thụ lớn như Hoa Kỳ, EU; biến động địa chính trị giữa các nước. Tuy nhiên, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành cùng với các giải pháp khơi thông thị trường, lưu thông hàng hóa, việc thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu đối với mặt hàng gạo đã ghi nhận được một số kết quả tích cực.
Cụ thể, công tác điều hành xuất khẩu gạo đã bám sát mục tiêu tiêu thụ hết lúa gạo cho người nông dân và bảo đảm lợi ích người trồng lúa theo chính sách hiện hành; góp phần bình ổn giá thóc, gạo trong nước. Giá thóc, gạo nội địa đã duy trì ở mức đảm bảo có lãi cho người nông dân.
Cơ cấu chủng loại gạo xuất khẩu đang đi đúng định hướng, chủng loại gạo trắng thường vẫn chiếm tỷ trọng ổn định (dưới 45% tổng lượng gạo xuất khẩu), tiếp đến gạo thơm và gạo nếp chiếm trên 45% tổng lượng gạo xuất khẩu. Ngoài ra xuất khẩu gạo hữu cơ và gạo tăng cường vi chất dinh dưỡng tuy với tỷ trọng còn khiêm tốn nhưng đã làm đa dạng chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam và khẳng định được giá trị hạt gạo xuất khẩu.
Bộ Công Thương khẳng định: “Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục giữ đà tăng trưởng trong 2 tháng đầu năm 2023, nhiều thời điểm trong các tháng, giá gạo xuất khẩu 5% tấm đứng đầu thế giới, cao hơn giá gạo cùng chủng loại của Thái Lan và Ấn Độ”.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), tính đến ngày 15/2/2023, giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam đạt 463 USD/tấn (FOB), tăng 16,3% so với cùng kỳ năm 2023, bằng với giá gạo của Thái Lan cùng chủng loại, tăng 20 – 23 USD/tấn so với gạo 5% tấm của Ấn Độ, Pakistan.
Thị trường xuất khẩu gạo trong năm 2022 ghi nhận sự tăng trưởng ở tất cả thị trường. Xuất khẩu gạo sang thị trường EU ghi nhận sự tăng trưởng vượt bậc ở mức 94.510 tấn gạo và vượt hạn ngạch 80.000 tấn gạo hàng năm mà EU dành cho Việt Nam theo cam kết từ Hiệp định EVFTA. Điều này cho thấy chất lượng gạo xuất khẩu tiếp tục được khẳng định.
Theo ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương, mỗi năm Việt Nam sản xuất từ 22 – 23 triệu tấn gạo, trong đó xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 15%.
Vì vậy, dư địa để gia tăng sản lượng xuất khẩu là khá lớn. Đặc biệt, với việc sản xuất hơn 80% dòng gạo thơm, chất lượng cao đang mở ra cơ hội để ngành hàng này phát triển và vươn xa.
Thực tế đã chứng minh, trong năm 2022 với muôn vàn khó khăn, ngành lúa gạo vẫn luôn giữ được đà tăng trưởng tốt. Đặc biệt, xuất khẩu gạo đang tăng cả về giá và số lượng, thậm chí có những thời điểm, gạo của Việt Nam có giá trị cao hàng đầu thế giới. Kết quả này đã thể hiện hướng đi đúng trong việc chuyển hướng tăng cường sản xuất gạo chất lượng cao của ngành nông nghiệp.
Năm 2023, Bộ Công Thương cũng dự báo xuất khẩu gạo Việt Nam đạt khoảng 7 triệu tấn, trị giá gần 4 tỷ USD.
Thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, giám sát hải quan
Để đảm bảo việc xuất khẩu, tái xuất hàng hóa đúng quy định, Tổng cục Hải quan yêu cầu Cục Hải quan các tỉnh, thành phố quán triệt cán bộ công chức hải quan tại các Chi cục Hải quan cửa khẩu đảm bảo thực hiện đúng chỉ đạo của Tổng cục Hải quan.
Ngành hải quan quyết liệt chống buôn lậu, gian lận thương mại
Cụ thể, thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa kinh doanh quá cảnh theo đúng quy định tại các Hiệp định quá cảnh hàng hóa giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Campuchia, Lào, Trung Quốc và các văn bản quy phạm pháp luật.
Về cửa khẩu xuất đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất, hàng hóa quá cảnh và hàng hóa gửi kho ngoại quan, Tổng cục Hải quan chỉ đạo, đối với hàng hóa tái xuất, hàng hóa vận chuyển từ kho ngoại quan đến cửa khẩu xuất để xuất đi nước ngoài qua cửa khẩu biên giới phải được tái xuất qua cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính theo đúng quy định.
Hàng hóa chỉ được xuất khẩu, tái xuất theo đúng địa điểm xuất hàng, cửa khẩu xuất đã được đăng ký trên tờ khai hải quan, không cho phép thực hiện việc chia nhỏ container, chia nhỏ lô hàng để xuất qua các lối mòn, lối mở, mốc biên giới.
Công chức hải quan chỉ xác nhận hàng hóa qua khu vực giám sát sau khi toàn bộ lô hàng đã được vận chuyển qua đúng cửa khẩu xuất đã đăng ký với cơ quan Hải quan.
Đối với hàng hóa tái xuất, xuất khẩu phải được vận chuyển trên các phương tiện đáp ứng điều kiện niêm phong, kiểm tra, giám sát hải quan. Cụ thể, đối với container, không bị rách vỡ, thủng; tay khóa, chốt có lỗ gắn được seal của cơ quan Hải quan; bản lề, tại container đúng theo tiêu chuẩn đã được cơ quan có thẩm quyền chứng nhận. Đối với các xe thùng, thùng chứa hàng hóa không bị thủng, rách vỡ; tay khóa, chốt có lỗ đảm bảo gắn được seal của cơ quan Hải quan.
Trường hợp container/thùng chứa đựng hàng hóa không đáp ứng điều kiện để niêm phong, giám sát hải quan, Chi cục Hải quan nơi hàng hóa vận chuyển đi không cho phép bốc xếp hàng hóa lên phương tiện đó và không xác nhận đủ điều kiện qua khu vực giám sát hải quan.
Làm rõ các dấu hiệu tiếp tay, bảo kê cho hàng hóa
Việc vận chuyển hàng hóa quá cảnh, hàng hóa từ kho ngoại quan hoặc từ địa điểm lưu giữ đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất đến cửa khẩu xuất phải được giám sát bằng seal định vị điện tử.
Trong quá trình theo dõi, giám sát qua hệ thống nếu phát hiện phương tiện chứa hàng, niêm phong hải quan có dấu hiệu không đảm bảo nguyên trạng, phương tiện vận chuyển đi không đúng lộ trình, thời gian, tắt tín hiệu định vị thì thực hiện kiểm tra thực tế hàng hóa ngay tại cửa khẩu xuất.
Bên cạnh đó, Tổng cục Hải quan yêu cầu Cục Hải quan các tỉnh, thành phố, đặc biệt là các địa phương có cửa khẩu biên giới đất liền chỉ đạo các Chi cục Hải quan cửa khẩu và các lực lượng kiểm soát hải quan, trực ban, thanh tra nội bộ tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện thủ tục hải quan, giám sát hải quan tại các khu vực lối mòn, lối mở, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý đối với hành vi xuất khẩu, tái xuất hàng hóa không đúng cửa khẩu quy định.
Cục Điều tra chống buôn lậu, Cục Giám sát quản lý về hải quan và Trực ban Tổng cục cũng được giao tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát, tuần tra, kiểm soát trực tiếp hoặc thông qua hệ thống quản lý seal định vị điện tử, camera giám sát lắp đặt tại các khu vực cửa khẩu.
Trong trường hợp phát hiện vi phạm thì ngoài việc xử lý theo quy định của pháp luật, cần làm rõ các dấu hiệu tiếp tay, bảo kê cho hàng hóa vận chuyển qua các khu vực này của công chức hải quan cũng như các lực lượng chức năng khác.
Đặc biệt, Tổng cục Hải quan sẽ xem xét kiểm điểm trách nhiệm, xử lý người đứng đầu đơn vị khi để xảy ra các hành vi vi phạm trên địa bàn quản lý.