Theo đó, ngoại trừ 3 doanh nghiệp được kiểm tra trong quá trình phân tích rủi ro, các chuyên gia Trung Quốc đã tiến hành kiểm tra trực tuyến đối với 20 cơ sở đóng gói trong danh sách đề xuất của Việt Nam.
70 vùng trồng, 13 cơ sở đóng gói khoai lang đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc
Thông qua kiểm tra trực tuyến và trao đổi kỹ thuật, các chuyên gia Trung Quốc xác nhận 13 trong 23 cơ sở đóng gói đáp ứng được yêu cầu của Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch đối với sản phẩm khoai lang.
10 cơ sở đóng gói còn lại còn một số vấn đề cần khắc phục như: hệ thống quản lý chưa đạt tiêu chuẩn, thiết bị chưa hoàn chỉnh, thông số kỹ thuật không tốt hoặc cơ sở vật chất chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của nghị định thư.
Cùng với 13 cơ sở đóng gói này, danh sách 70 vùng trồng khoai lang đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc đã được đăng tải đầy đủ trên website của Cục Kiểm dịch động thực vật, Tổng cục Hải quan Trung Quốc tại địa chỉ: http://dzs.customs.gov.cn.
Tổng cục Hải quan đề nghị phía Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) thực hiện tốt công tác kiểm dịch trước xuất khẩu và hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đúng các yêu cầu của quy trình sản xuất, chế biến.
Trước đó, từ ngày 7/3 – 10/3/2023, được sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của Cục Bảo vệ thực vật và Đại sứ quán hai nước, đoàn chuyên gia Trung Quốc đã tiến hành kiểm tra trực tuyến doanh nghiệp khoai lang để được phê duyệt xuất khẩu sang Trung Quốc.
Thời gian tới, phía Trung Quốc sẵn sàng tăng cường hợp tác với Việt Nam để thúc đẩy hơn nữa việc phát triển thương mại khoai lang nói riêng và nông sản nói chung giữa hai nước.
Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch đối với khoai lang xuất khẩu sang Trung Quốc được công bố ngày 22/11/2022. Đây được xem là cơ hội cho người nông dân Việt Nam phát triển ngành hàng, gia tăng giá trị kinh tế cũng như chuyển dịch dần từ xuất khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch.
Bên cạnh các quy định về vùng trồng, giám sát quá trình chế biến, cơ sở đóng gói, áp dụng tiêu chuẩn VietGAP hoặc tương đương… Nghị định thư yêu cầu phía sản xuất phải áp dụng các biện pháp phòng trừ sinh vật gây hại trên khoai lang tím theo phụ lục.
Cục Bảo vệ thực vật cam kết, tiếp tục phối hợp, hỗ trợ cơ quan chuyên môn tại địa phương trong công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân. Mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như mở cửa thị trường hơn nữa cho sản phẩm khoai lang.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu của Tổng cục Hải quan cho biết, ước tính, xuất khẩu cao su của Việt Nam trong tháng 3/2023 đạt khoảng 130 nghìn tấn, trị giá 184 triệu USD, giảm 0,8% về lượng và giảm 0,6% về trị giá so với tháng 02/2023; so với tháng 3/2022 tăng 15,7% về lượng, nhưng giảm 9,2% về trị giá.
Quý I/2023, xuất khẩu cao su giảm 22,9% về giá trị
Giá xuất khẩu cao su bình quân ở mức 1.414 USD/tấn, tăng 0,2% so với tháng 02/2023, nhưng giảm 21,5% so với tháng 3/2022.
Lũy kế 3 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cao su ước đạt 396 nghìn tấn, trị giá 552 triệu USD, giảm 2,6% về lượng và giảm 22,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Chủng loại cao su xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280), Latex, SVR 10, SVR 3L, SVR CV60, RSS3,… Trong đó, hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280) vẫn là mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất.
Về thị trường xuất khẩu, hiện Trung Quốc chiếm tới 99,71% tổng lượng hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp xuất khẩu của Việt Nam.
Trong quý I/2023, phần lớn các chủng loại cao su xuất khẩu đều sụt giảm cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Tuy nhiên, xuất khẩu một số chủng loại cao su vẫn tăng trưởng tốt cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2022, trong đó đáng chú ý như: Cao su tổng hợp, RSS1, SVR CV40…, nhưng các chủng loại này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 3/2023, giá mủ cao su nguyên liệu tiếp tục duy trì quanh mức 230 – 288 đồng/TSC. Trong đó, tại Bình Phước, giá mủ cao su nguyên liệu được Công ty cao su Phú Riềng thu mua ở mức 270 – 280 đồng/TSC. Tại Bình Dương, giá thu mua mủ cao su nguyên liệu của Công ty cao su Phước Hòa dao động ở mức 286 – 288 đồng/TSC. Mủ cao su tại Gia Lai được Công ty cao su Mang Yang thu mua với giá 230 – 240 đồng/TSC, ổn định so với cuối tháng 02/2023.
Trên thị trường thế giới, trong tháng 3/2023, giá cao su tại các sàn giao dịch châu Á có xu hướng giảm so với tháng trước. Tại Sở giao dịch hàng hóa Osaka Exchange (OSE) Nhật Bản, giá cao su RSS3 đã giảm xuống 195,8 Yên/kg, mức thấp nhất tháng vào ngày 20/3/2023, sau đó giá cao su có xu hướng tăng trở lại, nhưng vẫn thấp hơn so với cuối tháng trước.
Tại Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), sau giảm xuống 11.575 NDT/tấn, mức thấp nhất tháng vào ngày 20/3/2023, giá cao su đã tăng nhẹ trở lại, nhưng vẫn giảm so với cuối tháng trước.
Tại Thái Lan, giá cao su RSS3 biến động mạnh, giảm xuống mức 52 Baht/kg vào ngày 20/3/2023, sau đó giá có xu hướng tăng trở lại, nhưng vẫn giảm so với cuối tháng trước.
Thông thường, những tháng đầu năm là mùa khô, các vườn trồng cao su ngừng cạo mủ cao su, nguồn cung giảm nên giá cao su thường tăng cao trong quý đầu năm. Tuy nhiên, trong năm nay việc giá xuất khẩu cao su giảm trong những tháng đầu năm là khá bất thường so với các năm trước.
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đang rơi vào tình cảnh “ăn đong” từng container hàng. Không chỉ người bán, ngay cả người mua cũng vậy.
Xuất khẩu sụt giảm mạnh
Những tháng đầu năm 2023, tình trạng đơn hàng xuất khẩu giảm mạnh, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cho biết trong 3 tháng đầu năm, các doanh nghiệp phải luân phiên đóng cửa.
Ông Trần Văn Lĩnh – Tổng giám đốc Công ty Thuận Phước cho biết, với các doanh nghiệp thủy sản, hiện nay tình trạng “đói đơn hàng diễn ra khá phổ biến. Theo ông Lĩnh, thông thường các năm trước đến thời điểm này các doanh nghiệp đã ký xong đơn hàng cho quý IV nhưng bây giờ ký được container nào thì làm container đó.
“Tình cảnh của doanh nghiệp thủy sản bây giờ là ‘ăn đong’ từng container hàng. Không chỉ người bán, ngay cả người mua cũng vậy. Do chỉ có đơn hàng nhỏ lẻ nên đã có một số doanh nghiệp thủy sản đóng cửa nhà máy luân phiên, sản xuất cầm chừng”, ông Trần Văn Lĩnh chia sẻ.
Cũng theo ông Lĩnh, không chỉ giảm sút trầm trọng về đơn hàng mà giá xuất khẩu thủy sản vào các thị trường đều thấp do doanh nghiệp bán bằng đô la. Hơn nữa đồng Việt Nam đang mạnh lên so với đồng đô la Mỹ nên doanh nghiệp xuất khẩu càng bị khó.
Đơn hàng xuất khẩu thủy sản giảm sút mạnh trong quý I/2023
Trên thực tế, thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (Vasep), kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 3/2023 ước đạt 780 triệu USD, giảm 24% so với cùng kỳ năm 2022. Lũy kế hết quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt khoảng 1,85 tỷ USD, giảm 27% so với quý I/2022. Trong đó, mặt hàng tôm giảm sâu nhất khi đạt 577 triệu USD, giảm 40%; cá tra đạt 447 triệu USD, giảm 32%; cá ngừ đạt 179 triệu USD, giảm 31%. Xuất khẩu mực, bạch tuộc cũng giảm 8% khi đạt 54 triệu USD.
Lý giải về sự sụt giảm trên, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Vasep cho hay, thị trường bây giờ rất khó vì có người bán mà không có người mua, do đó, khả năng xuất khẩu thủy sản sẽ còn rớt sâu hơn nữa.
Theo ông Hoè, qua trao đổi với các doanh nghiệp thuỷ sản được biết, bây giờ đã bước sang tháng 4, song đơn hàng vẫn chưa có, nếu như vậy thì làm sao có thể “cứu” kim ngạch xuất khẩu.
“Mặc dù khó khăn, song các doanh nghiệp cũng không biết giải quyết thế nào, vì vấn đề không phải do nội tại mà do thị trường nhập khẩu. Chúng ta không thể nào ép nhà nhập khẩu mua hàng. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp cho rằng, với tình hình thị trường Mỹ như thế này, nếu vì nể nhau nhà nhập khẩu đưa đơn hàng với giá quá thấp hoặc kèm theo điều kiện giao hàng này nọ … thì doanh nghiệp cũng không thể làm được. Không riêng gì thị trường Mỹ, phần lớn các thị trường xuất khẩu đều trong trạng thái rất chậm”, ông Trương Đình Hòe nói.
Triển vọng từ thị trường Trung Quốc
Bà Lê Hằng, Giám đốc Truyền thông Vasep phân tích, thị trường thế giới vẫn bị tác động nặng nề bởi lạm phát, kinh tế suy giảm khiến nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu thủy sản giảm, giá nhập khẩu cũng giảm theo.
Theo đó, xu hướng chung trong nửa đầu năm 2023 là xuất khẩu tôm sẽ hồi phục chậm vì cạnh tranh gay gắt với Ấn Độ, Ecuador, Indonesia. Xuất khẩu cá tra khả quan hơn trong bối cảnh lạm phát và kinh tế suy giảm ở nhiều thị trường và có thêm cơ hội lớn sau khi Trung Quốc mở cửa trở lại hoàn toàn sau thời gian dài dịch COVID-19. Xuất khẩu các loài cá biển dự báo tiếp tục tăng.
Tại các thị trường lớn như: Mỹ, EU đang có xu hướng tăng tiêu thụ các sản phẩm truyền thống tại các siêu thị cho người tiêu dùng châu Á. Do vậy, xuất khẩu hàng khô (cá, tôm, mực), nước mắm, chả cá, đồ hộp sẽ tăng.
Ông Trương Đình Hòe – Phó Tổng thư ký Vasep cho rằng, trong khi các nước đối thủ như Ấn Độ, Ecuador tập trung vào sản phẩm sơ chế, các doanh nghiệp xuất khẩu phải nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm.
Đồng thời điều chỉnh hợp lý các sản phẩm xuất khẩu. Điển hình như, với Trung Quốc thì ngoài sản phẩm đông lạnh, doanh nghiệp nên tận dụng lợi thế về vị trí địa lý gần để tăng xuất khẩu tôm, hải sản tươi/sống cho phân khúc nhà hàng, khách sạn, du lịch. Với các thị trường lớn khác như: Mỹ, EU, doanh nghiệp quan tâm hơn đến xu hướng nhập khẩu hàng cho các siêu thị châu Á, nghĩa là các dòng sản phẩm truyền thống đang hút khách như: hàng khô, nước mắm, mắm ruốc…
Cùng với đó, xu hướng tiêu dùng thế giới đang tập trung vào các sản phẩm tốt cho sức khỏe, thân thiện môi trường và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Vì thế, ngành thủy sản cần phát triển theo mô hình kinh tế xanh, chú trọng nuôi trồng bền vững, như mô hình tôm lúa, tôm rừng… tạo các sản phẩm nuôi bền vững thuyết phục khách hàng thế giới. Chú trọng chế biến các sản phẩm mới từ các phụ phẩm, tăng tính cạnh tranh cho thủy sản Việt Nam.
“Xu hướng tiêu dùng thủy sản của thế giới là tập trung vào các sản phẩm tốt cho sức khỏe, thân thiện môi trường và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Đối với xu hướng này Việt Nam đang có nhiều lợi thế”, Tổng thư ký Vasep nói.
Tiếp tục mở rộng và tận dụng cơ hội từ FTA; khai mở thêm các thị trường mới; triển khai mạnh các giải pháp xúc tiến thương mại… để gỡ khó cho xuất nhập khẩu.
Xuất nhập khẩu suy giảm
Theo báo cáo Bộ Công Thương công bố chiều ngày 3/4, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 03/2023 ước đạt 58,49 tỷ USD, tăng 18,6% so với tháng trước và giảm 13% so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý I/2023 có 2 kỳ nghỉ Tết (Dương lịch và Âm lịch), số ngày làm việc ít, cùng với sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu nên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 154,27 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 15%).
Cụ thể, về xuất khẩu hàng hóa, mặc dù kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 3/2023 có sự hồi phục, ước đạt 29,57 tỷ USD, tăng 13,5% so với tháng trước nhưng giảm tới 14,8% so với cùng kỳ năm trước do những khó khăn trong sản xuất và sụt giảm đơn hàng xuất khẩu…
Tính chung quý I/2023, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 79,17 tỷ USD, giảm 11,9% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 14,4%); trong đó khu vực doanh nghiệp trong nước giảm mạnh hơn (giảm 17,4%) so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (giảm 10%). Điều này cho thấy những khó khăn của các doanh nghiệp trong nước trong việc khôi phục sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu.
Cụ thể, về xuất khẩu các nhóm hàng, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản quý I/2023, ước đạt 6,86 tỷ USD, giảm 7,5% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 8,7% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Xuất khẩu gạo là điểm sáng thời gian qua
Điểm nổi bật trong xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản trong tháng 3 là xuất khẩu gạo tăng mạnh cả về lượng và về trị giá xuất khẩu. Ước tính xuất khẩu gạo tháng 3/2023 so với tháng trước tăng 68,3% về lượng và tăng 67,6% về kim ngạch; so với cùng kỳ năm ngoái, xuất khẩu gạo tăng 69,3% về lượng và tăng 82,3% về kim ngạch xuất khẩu.
Rau quả cũng là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Ông Đặng Phúc Nguyên – Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho biết, rau quả là số ít mặt hàng có sự tăng trưởng tích cực ngay từ đầu năm. Trong đó, xuất khẩu tới thị trường Trung Quốc tăng trưởng tốt, khoảng 23% so với năm ngoái là yếu tố chính thúc đẩy ngành hàng rau tăng trưởng khả quan. Việc Trung Quốc bỏ chính sách “Zero-Covid” đã giúp xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường này lấy lại đà tăng trưởng.
Bên cạnh đó, năm 2022, ta đã ký được một số nghị định quan trọng, nhất là tháng 7/2022 ký được nghị định thư với Trung Quốc về xuất khẩu sầu riêng; tháng 11, ký nghị định thư với Trung Quốc về xuất khẩu chuối, sau đó là khoai lang, tổ yến trúng vào dịp tết Nguyên đán thị trường Trung Quốc tiêu thụ rau quả tăng mạnh. Tiếp đó, đến tháng 10, Mỹ cho phép xuất bưởi sang nước này. Tháng 11, New Zealand ký kết mở cửa thị trường xuất khẩu bưởi, chanh của Việt Nam. Đây là yếu tố quan trọng giúp kim ngạch xuất khẩu rau quả có nhiều khởi sắc.
Cùng với nông sản, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo quý I/2023 suy giảm mạnh, ước đạt 67,5 tỷ USD, giảm 13,1% so với cùng kỳ năm ngoái do chịu ảnh hưởng từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu, tổng cầu giảm sút, nhu cầu của các thị trường xuất khẩu lớn giảm mạnh. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng trong nhóm đều giảm so với quý I/2022.
Một nhóm khác là nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản quý I/2023 có kim ngạch giảm 3,1% so với cùng kỳ năm 2022 chủ yếu do sự sụt giảm mạnh về kim ngạch xuất khẩu than đá (giảm 97,8%) và xuất khẩu quặng và khoáng sản khác (giảm 28,9%). Điểm sáng duy nhất trong xuất khẩu nhóm hàng này là xuất khẩu dầu thô tăng 17% so với cùng kỳ năm trước.
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu tới hầu hết các thị trường, đối tác thương mại lớn của nước ta trong quý I/2023 đều giảm. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 20,57 tỷ USD
Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 03/2023 ước đạt 28,92 tỷ USD, tăng 24,4% so với tháng trước nhưng giảm 11,1% so với cùng kỳ. Tính chung quý I/2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 75,1 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước.
Với diễn biến như vậy, cán cân thương mại của Việt Nam trong tháng 3/2023 tiếp tục thặng dư khoảng 650 triệu USD, nâng tổng xuất siêu trong quý I/2023 là 4,07 tỷ USD (cùng kỳ xuất siêu 1,87 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 6,77 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 10,8 tỷ USD.
Chắt chiu cơ hội
Bộ Công Thương dự báo thời gian tới, sức mua vẫn hồi phục chậm, sản xuất vẫn sẽ khó khăn do thiếu hụt đơn hàng. Việc tiếp cận vốn, lãi suất ngân hàng và chi phí đầu vào nguyên vật liệu vẫn ở mức cao. Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế của một số quốc gia tiếp tục có tác động không nhỏ đến các quốc gia phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực như điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ trong thời gian tới.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại để góp phần tăng trưởng xuất khẩu
Tuy nhiên, trong khó khăn vẫn có những dấu hiệu tích cực nhất định như một số khu vực kinh tế lớn như Trung Quốc, Mỹ tăng trưởng cao hơn dự báo; một số nền kinh tế đang nổi tại châu Á như Ấn Độ, ASEAN tăng trưởng khả quan. Các chính sách kích cầu đầu tư công và hỗ trợ doanh nghiệp của nhà nước phát huy tác dụng trong việc phục hồi các hoạt động sản xuất. Số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới tăng lần đầu tiên trong 3 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp dù có giảm nhưng xu hướng tăng dần qua các tháng; nhập khẩu nguyên phụ liệu có dấu hiệu tăng… là những yếu tố dự báo tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu trong thời gian tới sẽ khả quan hơn.
Đặc biệt, mới đây, việc đàm phán Hiệp định thương mại FTA Việt Nam – Israel (VIFTA) chính thức được tuyên bố kết thúc nhân chuyến công tác và làm việc tại Israel của Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên với Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghiệp Israel Nir Barkat ngày 2/4/2023. Israel là một trong những đối tác hợp tác thương mại, đầu tư và lao động quan trọng hàng đầu của Việt Nam tại khu vực. Israel hiện là thị trường xuất khẩu đứng thứ 3, là đối tác thương mại lớn thứ 5 của Việt Nam tại khu vực Tây Á và được đánh giá là thị trường lớn, tiềm năng tại Tây Á.
Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Israel đạt 2,2 tỷ USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến Israel đạt 785,7 triệu USD và kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Israel đạt 1,4 tỷ USD. Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho rằng với cơ cấu kinh tế có tính bổ trợ lẫn nhau và kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều đang tăng trưởng mạnh mẽ, Việt Nam và Israel sẽ đạt được nhiều lợi ích hơn nữa khi các ưu đãi và lợi thế từ VIFTA được tận dụng hiệu quả.
Trong thời gian tới, để tháo gỡ khó khăn cho xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục tổ chức các Hội nghị giao ban định kỳ hàng tháng giữa các cơ quan của Bộ, hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp và các Bộ, ngành liên quan để kịp thời cập nhật cho doanh nghiệp, Hiệp hội về thông tin, nhu cầu, cũng như các quy định mới của thị trường. Đẩy mạnh phát triển xuất nhập khẩu thông qua hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới.
Bên cạnh đó, tiếp tục mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu; hướng đến các thị trường mới, thị trường còn tiềm năng như Ấn Độ, châu Phi, Trung Đông và châu Mỹ La tinh, Đông Âu… Đẩy mạnh khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Tạo thuận lợi hoá, tăng cường chuyển đổi số trong công tác cấp Giấy chứng nhận xuất xứ C/O ưu đãi, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các Hiệp định FTA; Tập trung đổi mới và tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại. Thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics, qua đó giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.
Đối với các mặt hàng chủ lực, ông Đặng Phúc Nguyên nhấn mạnh, Trung Quốc vẫn sẽ là thị trường lớn nhất của rau quả Việt Nam khi mỗi năm thị trường này tiêu thụ khoảng 300 triệu tấn rau quả mà họ mới nhập 7-8 triệu tấn. Trong khi đó, nguồn cung của Việt Nam rất tiềm năng. Đây dự báo vẫn là thị trường chiến lược của rau quả Việt thời gian tới.
Riêng với thủy sản, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) chia sẻ, xuất khẩu thủy sản dù còn nhiều khó khăn song các doanh nghiệp vẫn trong tâm thế phát triển, tăng trưởng để cung cấp thực phẩm cho thế giới. Để giúp cho ngành thủy sản tăng trưởng, các doanh nghiệp đang nỗ lực nâng giá trị sản phẩm thủy sản thông qua gia tăng giá trị chế biến.
Trong quý I/2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm ước đạt 172,42 triệu USD, giảm 35,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu Tổng cục Hải quan cho biết, ước tính, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm trong tháng 3/2023 đạt 70 triệu USD, tăng 23,5% so với tháng 2/2023, nhưng giảm 21,5% so với tháng 3/2022. Tính chung trong quý I/2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm ước đạt 172,42 triệu USD, giảm 35,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Quý I/2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm giảm 2 con số
Riêng trong tháng 2/2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm của Việt Nam đạt 56,66 triệu USD, tăng 23,8% so với tháng 1/2023, nhưng giảm 16,3% so với tháng 02/2022. Tính chung trong 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm đạt 102,42 triệu USD, giảm 41,7% so với cùng kỳ năm 2022.
Về thị trường, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm của Việt Nam sang thị trường EU trong tháng 2/2023 đạt 15,79 triệu USD, tăng 13,8% so với tháng 01/2023, nhưng giảm 2,8% so với tháng 2/2022. Tính chung trong 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm sang EU đạt 29,62 triệu USD, giảm 31,8% so với cùng kỳ năm 2022. Trong số các mặt hàng thủ công mỹ nghệ EU nhập khẩu từ Việt Nam thì mây tre là mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất.
Đối với thị trường Hoa Kỳ, tháng 2/2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm sang thị trường này đạt 19,335 triệu USD, tăng 28,1% so với tháng 1/2023; giảm 36,8% so với tháng 2/2022. Tính chung trong 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm sang Hoa Kỳ đạt 34,45 triệu USD, giảm 55,4% so với cùng kỳ năm 2022.
Thời gian qua, lạm phát toàn cầu đặc biệt ở các các thị trường xuất khẩu chính như thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, khiến sức mua của người tiêu dùng giảm. Tăng trưởng xuất khẩu năm 2023 sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như diễn biến xung đột tại Ukraina, tình hình kiềm chế lạm phát, diễn biến kinh tế ở các thị trường có quy mô nhập khẩu lớn trên thế giới.
Về phía cung, tác động từ mở cửa nền kinh tế sau kiểm soát dịch Covid-19 của Trung Quốc có thể làm hàng hoá Việt Nam phải gặp cạnh tranh nhiều hơn tại các thị trường xuất khẩu.
Mặc dù vậy, cũng có nhiều yếu tố tích cực đối với hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ nói riêng như các Hiệp định thương mại tự do (FTA) tiếp tục thực thi lộ trình cắt giảm thuế quan.
Tuy nhiên, để nắm bắt cơ hội mở rộng thị trường, các cơ sở, doanh nghiệp làng nghề cần trang bị những nền tảng cơ bản theo yêu cầu thị trường, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các sàn thương mại điện tử, công nghệ truy xuất nguồn gốc.
Theo Tổng cục Hải quan, ước xuất khẩu thủy sản quý I/2023 sẽ đạt khoảng 1,85 tỷ USD, giảm 27% so với quý I/2022.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính đến giữa tháng 3/2023, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,4 tỷ USD, giảm 28% so với cùng kỳ năm ngoái. Ước xuất khẩu thủy sản quý I/2023 sẽ đạt khoảng 1,85 tỷ USD, giảm 27% so với quý I/2022.
Xuất khẩu thủy sản quý I/2023 đạt trên 1,8 tỷ USD
Riêng tháng 3/2022, xuất khẩu thủy sản ước đạt 780 triệu USD, giảm 245 so với cùng kỳ năm 2022. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực vẫn giảm 8 – 39%. Trong đó, xuất khẩu tôm giảm 39%, cá tra giảm 23%, cá ngừ giảm 33%, mực bạch tuộc giảm 8%. Tuy nhiên, xuất khẩu các loài cá biển khác vẫn tăng trưởng dương 11% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính đến hết quý I/2023, xuất khẩu tôm mang về 577 triệu USD, giảm 40%, cá tra đạt 447 triệu USD, thấp hơn 32% so với cùng kỳ và cá ngừ giảm 31% đạt 179 triệu USD. Xuất khẩu mực, bạch tuộc cũng thấp hơn 8% so với cùng kỳ đạt 54 triệu USD. Riêng xuất khẩu các loài cá biển vẫn tăng nhẹ 3% đạt 435 triệu USD.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho hay, thị trường thế giới vẫn bị tác động nặng nề bởi lạm phát, kinh tế suy giảm khiến nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu giảm và giá nhập khẩu cũng giảm theo.
Dự báo, xuất khẩu thủy sản sẽ hồi phục dần từ quý II sau khi diễn ra các chương trình hội chợ quốc tế tại Mỹ và EU thu hút thêm các bạn hàng đến với Việt Nam.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cũng nhận định, trong nửa đầu năm 2023 xuất khẩu tôm sẽ hồi phục chậm vì cạnh tranh gay gắt với Ấn Độ, Ecuador, Indonesia. Xuất khẩu cá tra sẽ khả quan hơn trong bối cảnh lạm phát và kinh tế suy giảm ở nhiều thị trường và có thêm cơ hội lớn sau khi Trung Quốc mở cửa trở lại hoàn toàn sau Covid.
Xuất khẩu các loài cá biển tiếp tục tăng, trong đó có đóng góp ngày càng lớn của hàng gia công, xuất khẩu và hàng sản xuất xuất khẩu từ nguyên liệu nhập khẩu như cá hồi, cá tuyết cod, cá minh thái. Tại các nước đang có xu hướng tăng tiêu thụ các sản phẩm truyền thống cho người tiêu dùng châu Á. Do vậy, xuất khẩu hàng khô (cá, tôm, mực), nước mắm, chả cá, đồ hộp sẽ tăng.
Trung Quốc sẽ trở thành thị trường nhập khẩu lớn nhất, nhưng áp lực cạnh tranh rất lớn vì các nhà xuất khẩu và các thương gia các nước cũng tập trung vào thị trường này sau mở cửa.
Xuất khẩu sang các thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc khó bứt phá vì lạm phát khiến người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu và giá nhập khẩu trung bình giảm so với năm trước.
Từ thực tế biến động thị trường, các doanh nghiệp thủy sản đã có điều chỉnh hợp lý các sản phẩm xuất khẩu. Ví dụ, với Trung Quốc thì ngoài sản phẩm đông lạnh, doanh nghiệp nên tận dụng lợi thế về vị trí địa lý gần để tăng xuất khẩu tôm, hải sản tươi/sống cho phân khúc nhà hàng, khách sạn, du lịch.
Với các thị trường lớn khác như Mỹ, EU, doanh nghiệp quan tâm hơn đến xu hướng nhập khẩu hàng cho các siêu thị châu Á, nghĩa là các dòng sản phẩm truyền thống của người châu Á vẫn đang hút khách: hàng khô, nước mắm, mắm ruốc…
Trong thời gian qua, các Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Ngoại giao đã tích cực xúc tiến nhiều chương trình xúc tiến thương mại, hội nghị, diễn đàn kết nối giao thương với một số thị trường. Các doanh nghiệp thủy sản mong muốn tiếp tục được tham gia các chương trình giao thương như vậy với các thị trường, nhất là các thị trường trọng điểm để tìm kiếm bạn hàng, đẩy mạnh xuất khẩu.
Bên cạnh đó, bối cảnh thị trường khó khăn năm 2023, doanh nghiệp rất trông chờ các cơ quan quản lý giúp tháo gỡ những khó khăn bất cập trước mắt cho doanh nghiệp để ổn định nguồn nguyên liệu và đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là chính sách và triển khai lãi suất ưu đãi cho bà con nông, ngư dân và doanh nghiệp chế biến thủy sản.
Trong bối cảnh thị trường còn nhiều khó khăn, xuất khẩu tôm 2 tháng đầu năm chỉ đạt 350 triệu USD, nhiều doanh nghiệp tìm cách xoay xở, giữ chân khách hàng.
Đối mặt khó khăn kép
Gần 20 năm tham gia xuất khẩu, chưa khi nào Công ty CP Thủy sản Sạch Việt Nam (Vina Cleanfood) phải đối mặt với nhiều khó khăn như hiện nay. Nếu như vào thời điểm này năm ngoái, doanh nghiệp đã ký được nhiều đơn hàng xuất khẩu, thì nay vẫn đang sản xuất cầm chừng chờ đơn hàng. Theo ông Võ Văn Phục, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam, lượng nguyên liệu trong nước giảm rất mạnh. Do đó, bức tranh xuất khẩu thủy sản quý 1/2023 rất tối.
Theo ông Phục, các nhà máy thủy sản có vùng nuôi riêng nhưng chỉ đáp ứng 20-30% nhu cầu sản xuất. Vì vậy, khi sản lượng tôm ít như hiện nay, doanh nghiệp mua tôm loại 25 con/kg với giá 245.000 đồng, 30 con giá 188.000 đồng, tăng 30.000-40.000 đồng so với lúc tôm thu hoạch chính vụ.
Ông Trần Văn Lĩnh – Chủ tịch HĐQT thủy sản Thuận Phước cho biết, hiện nay nguyên liệu tôm đang giảm sút trầm trọng. Những năm trước, thời điểm này doanh nghiệp có thể thu mua mỗi ngày cả trăm tấn nguyên liệu thì giờ đây sản lượng chỉ còn 10 tấn. Khu vực phía Nam là vùng nguyên liệu tôm lớn nhất cả nước, song giờ đây cũng không đủ cung cấp cho các nhà máy phía Nam. “Hiện nhiều nhà máy chế biến thủy sản ở phía Nam đang phải làm việc luân phiên, sản xuất cầm chừng”, ông Trần Văn Lĩnh thông tin.
Xuất khẩu tôm tiếp tục đối mặt nhiều thách thức
Trên thực tế, số liệu thống kê của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) cho thấy xuất khẩu tôm giảm khá mạnh trong 2 tháng đầu năm. Riêng trong tháng 2/2023, xuất khẩu tôm Việt Nam đạt 194 triệu USD, giảm 21% so với cùng kỳ. Lũy kế 2 tháng đầu năm nay, xuất khẩu tôm đạt 335 triệu USD, giảm 40%. Xuất khẩu tôm sang các thị trường chính đồng loạt giảm từ 12%-35% so với cùng kỳ năm trước.
Ông Trương Đình Hòe – Phó Tổng Thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam lý giải về sự suy giảm này: do nhu cầu thị trường chững, lạm phát thế giới ở mức cao, tồn kho tại Mỹ nhiều, tiêu dùng tại EU thắt chặt do khó khăn kinh tế, và cũng bởi vì cùng thời điểm này năm ngoái, xuất khẩu tôm tăng quá mạnh (với 558 triệu USD, tăng 48% so với cùng kỳ 2021).
Cùng quan điểm đó, ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần thực phẩm Sao Ta cho biết, đầu năm 2023, tồn kho ở các nhà phân phối và các nhà máy chế biến không nhỏ. Điều bất thường ở vụ tôm năm nay là doanh nghiệp thiếu đơn hàng, giá bán giảm nhưng tại thời điểm này giá tôm nguyên liệu lại tăng cao kỷ lục.
Hiện nay giá tôm nguyên liệu tại Bạc Liêu, Sóc Trăng đã đạt mức 170.000 đồng/kg loại 40 con/kg. Trong khi đó giá tôm nguyên liệu của Ấn Độ cùng loại chỉ khoảng 107.000 đồng/kg.
“Ngành tôm đang đối mặt với 2 khó khăn: Nếu giá tôm nguyên liệu duy trì ở mức cao như hiện nay thì sẽ có nhiều nhà máy đóng cửa vì không thể mua cao, bán thấp. Còn ngược lại nếu giá tôm nguyên liệu giảm 1/3 cho ngang bằng giá tôm thế giới thì người nuôi tôm sẽ treo ao vì thua lỗ”, ông Hồ Quốc Lực chia sẻ.
Tận dụng từ lợi thế nhỏ nhất
Theo ông Trần Văn Lĩnh, trong bối cảnh đơn hàng sụt giảm, chi phí sản xuất tăng cao, để duy trì sản xuất, giữ chân khách hàng doanh nghiệp đang thương lượng với khách hàng chia sẻ lợi nhuận, cố gắng vượt qua giai đoạn khó khăn.
Năm 2023, ngành tôm Việt Nam đặt mục tiêu đạt diện tích 750 nghìn hecta, sản lượng tôm các loại 1.080 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu hơn 4,3 tỷ USD. Để đạt được mục tiêu này, ông Trương Đình Hòe – Phó Tổng Thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, trong bối cảnh khó khăn, các doanh nghiệp phải cải thiện tình hình bằng cách giảm chi phí, tập trung vào giá trị gia tăng, nâng cao chất lượng sản phẩm. Doanh nghiệp có thể chuyển hướng xuất khẩu các sản phẩm đặc thù như tôm-rừng, tôm-lúa hay tôm sú với lợi thế từ thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chú trọng thay đổi cơ cấu sản phẩm để chủ động đáp ứng nhu cầu theo từng phân khúc thị trường… Đồng thời, khai mở thêm các thị trường mới bên cạnh các thị trường truyền thống, nhằm tìm kiếm các đơn hàng mới.
“Bên cạnh thách thức, chúng ta vẫn có nhiều cơ hội. Các doanh nghiệp năng động, thích ứng sớm với điều kiện mới sẽ tiếp tục chiếm lĩnh được thị trường”, ông Trương Đình Hòe nhấn mạnh
Cũng theo ông Hòe, để hỗ trợ các doanh nghiệp, mới đây Vasep đã có văn bản đề nghị Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn xem xét, điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu khô đậu tương từ mức 2% về mức 0%, nhằm hỗ trợ ngành sản xuất thức ăn thủy sản nói riêng, thức ăn chăn nuôi nói chung và ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam tiếp tục củng cố vị thế là một trong những nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới.
Xuất khẩu nhóm hàng hoá, sản phẩm chế biến thành phẩm có giá trị gia tăng cao của Việt Nam vào thị trường Israel đang có nhiều lợi thế.
Đặc biệt với Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Israel được ký kết trong tương lai sẽ mở ra nhiều cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường này.
Đặc thù về thị trường Israel và những mặt hàng, sản phẩm xuất khẩu có lợi thế của Việt Nam.
Mặc dù dung lượng thị trường khiêm tốn, với quy mô dân số xấp xỉ 9,7 triệu người, nhưng hoạt động kinh tế và ngoại thương của Israel khá phát triển. Năm 2022, thu nhập đầu người đạt xấp xỉ 55.000 USD; kim ngạch ngoại thương đạt 173 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 67 tỷ USD và nhập khẩu đạt 106 tỷ USD. Hàng năm, Israel có nhu cầu nhập khẩu nhiều loại hàng hóa để đáp ứng nhu cầu ở trong nước. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Israel gồm máy móc, thiết bị, phụ tùng, nguyên vật liệu,hàng tiêu dùng, hàng đầu tư, nhiên liệu xăng dầu, kim cương thô…
Về nhóm hàng tiêu dùng, mỗi năm Israel nhập khẩu đạt 25 tỷ USD, cụ thể bao gồm các mặt hàng như: lương thực thực phẩm, đồ uống các loại, quần áo, giày dép, nội thất, hàng điện tử, thiết bị điện, hàng gia dụng, dược phẩm….
Là đất nước có đặc trưng tôn giáo và sắc tộc, các doanh nghiệp người Do Thái thường yêu cầu người xuất khẩu phải có chứng nhận Kosher, trong khi các doanh nghiệp người Ả-rập có thể yêu cầu người xuất khẩu phải có chứng nhận Halal, đối với một số chủng loại hàng hóa nhất định, chủ yếu đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng. Đây là hai loai chứng nhận mang tính chất tôn giáo và thường phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể của người nhập khẩu theo từng lần giao dịch hoặc từng lô hàng mua bán.
Nhìn chung, các doanh nghiệp Israel kinh doanh năng động, thích ứng nhanh với biến động thị trường, làm ăn khá bài bản và nghiêm túc, giao dịch nhanh, luôn chủ động tìm kiếm đối tác bạn hàng qua nhiều kênh khác nhau, có nhu cầu đa dạng và sức mua ổn định, khả năng thanh toán cao và cơ bản sòng phẳng, sẵn sàng đặt cọc hoặc trả tiền trước, thích gặp gỡ trực tiếp đối tác bạn hàng và đến tận nơi xem hàng hóa tại nhà máy sản xuất, thường tiếp cận đối tác cung cấp riêng biệt theo nhóm lẻ và tránh đi theo nhóm đông, muốn mua hàng trực tiếp của nhà sản xuất và không muốn qua trung gian.
Quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Israel trong những năm qua phát triển tốt đẹp. Hai bên đã ký Hiệp định về hợp tác kinh tế thương mại vào năm 2004; thành lập Ủy ban liên Chính phủ với các kỳ họp được tổ chức luân phiên tại mỗi nước, góp phần tạo cơ chế thúc đẩy hợp tác trao đổi thương mại. Hai bên đang đàm phán Hiệp định Thương mại tự do song phương và đã trải qua 12 vòng đàm phán. Trao đổi thương mại hai chiều không ngừng tăng nhanh từ 1,58 tỷ USD trong năm 2020 lên 1,89 tỷ USD trong năm 2021 và đạt 2,23 tỷ USD trong năm 2022, tăng 17,85% so với năm trước đó.
Trong cán cân thương mại, Việt Nam đang nhập siêu từ Israel do chúng ta nhập khẩu nhóm hàng máy tính, linh kiện và bo mạch điện tử với trị giá lớn; đây là nhóm hàng do các công ty có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam nhập khẩu trong chuỗi hệ thống đa quốc gia của họ để tiến hành, phục vụ sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn thiện tại Việt Nam và xuất khẩu trở lại ra thị trường các nước trên thế giới.
Hiện tại, Israel là đối tác thương mại lớn thứ 5 và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam tại khu vực Trung Đông (sau UAE và Thổ Nhĩ Kỳ). Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giữa hai nước có tính chất bổ sung cho nhau, những mặt hàng Israel cần nhập khẩu cũng là những mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam và ngược lại.
Những năm gần đây, Việt Nam xuất khẩu sang Israel đạt trên dưới 780 triệu USD/năm. Cụ thể, năm 2021 xuất khẩu tăng 14,2% so với năm trước đó và năm 2022 xuất khẩu sang Israel đạt 785,7 triệu USD. Xét trên dung lượng thị trường, trị xuất khẩu của Việt Nam sang Israel/quy mô 9,7 triệu dân sở tại đạt tỷ lệ khá cao. Hiện xuất khẩu của Việt Nam đã khôi phục đà tăng trưởng sang thị trường này.
Trong 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu sang Israel đạt 125,5 triệu USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Dự kiến, nếu tình hình thị trường diễn biến thuận lợi, xuất khẩu của Việt Nam sang Israel trong cả năm 2023 có thể đạt khoảng 850 triệu USD.
Về cơ cấu mặt hàng, mỗi năm có khoảng trên dưới 70 diện mặt hàng các loại của Việt Nam được xuất khẩu sang Israel.Năm 2022, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm có điện thoại di động và linh kiện đạt 293,2 triệu USD, hàng thủy hải sản đạt 80,4 triệu USD (gồm tôm, mực đông lạnh, cá ngừ đóng hộp, cá tra…), nông sản các loại (như hạt điều đạt 59,8 triệu USD, cà phê đạt 24,3 triệu USD, gia vị các loại…), giày dép đạt 92,3 triệu USD, hàng dệt may đạt 32,8 triệu USD.
Doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều dư địa gia tăng xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Israel
Ngoài ra, còn có các mặt hàng xuất khẩu khác như: hàng điện tử, máy móc thiết bị điện, hàng gia dụng, đồ nhà bếp, nước giải khát, lương thực thực phẩm chế biến sẵn thuộc nhóm hàng khô, bánh kẹo, trái cây chế biến sấy khô và đóng hộp…
Trong năm 2022, điện thoại di động và linh kiện là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất, chiếm tỷ trọng 37,3%. Các mặt hàng còn lại thuộc nhóm hàng lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng gia dụng, quần áo, giày dép, hàng điện tử… chiếm tỷ lệ 62,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Israel. Cà phê, hàng dệt may, giày dép là các mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng mạnh từ 20%-50%.
Đối với nhóm hàng thủy hải sản, hàng năm, Israel thuộc trong Top 22 thị trường hàng đầu trong số trên 100 thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Đáng chú ý, trong năm 2022, xuất khẩu cá ngừ sang Israel đạt 36,63 triệu USD và Israel đứng thứ 4 trong số 10 thị trường nhập khẩu cá ngừ lớn nhất của Việt Nam (sau Mỹ, Canada và Nhật Bản); xuất khẩu mực đông lạnh sang thị trường này đạt 23,22 triệu USD, chiếm tỷ trọng 1,7% xuất khẩu mặt hàng này của cả nước và Israel đứng thứ 8 trong số 10 thị trường nhập khẩu mực và bạch tuộc hàng đầu của Việt Nam; xuất khẩu tôm đông lạnh sang Israel đạt khoảng 21 triệu USD và Israel đứng thứ 20.
Các mặt hàng cá ngừ đóng hộp, tôm và mực đông lạnh, cá tra, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, quần áo, giày dép… đã có chỗ đứng ổn định trên thị trường và được người tiêu dùng Israel ưa chuộng, đánh giá cao. Ngoài ra, mặt hàng gạo thơm, hạt dài, loại 5% tấm, đóng bao 5 kg; các loại thực phẩm khô, chế biến sẵn, trái cấy chế biến sấy khô hoặc đóng hộp(xoài, chuối, chanh dây, thanh long, dứa), rau củ quả sấy khô, bánh kẹo, nước giải khát các loại… tiếp tục xâm nhập với số lượng và trị giá chưa lớn nhưng bước đầu được phân phối trên thị trường Israel.
Hiện các doanh nghiệp Israel ngày càng quan tâm tới thị trường và đối tác Việt Nam, coi Việt Nam là một trong những nguồn cung cấp hàng hóa ổn định quan trọng tại châu Á (nhất là đối với nhóm hàng nông sản, thủy hải sản, lương thực thực phẩm chế biến, nước giải khát, hàng gia dụng, sản phẩm và thiết bị điện tử, hàng tiêu dùng…) để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở trong nước.
Những vấn đề cần lưu ý để nâng cao hơn nữa giá trị xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Israel trong giai đoạn tới
Thứ nhất, bên cạnh những thị trường truyền thống, chúng ta cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng các thị trường mới, thị trường ngách, thị trường ở xa… Hiệp định Thương mại tự do song phương với Israel đang được đàm phán giai đoạn cuối. Vòng đàm phán gần đây nhất đã diễn ra tại Hà Nội vào đầu tháng 1/2023. Hai bên đang tích cực hoàn tất chuẩn bị để tiến đến sớm kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định Thương mại tự do song phương giữa hai nước trong thời gian tới, qua đó góp phần mở cửa thị trường, giảm thuế, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tiếp tục tiếp cận và thâm nhập mạnh hơn nữa vào thị trường Israel.
Thứ hai, mặc dù dung lượng thị trường khiêm tốn nhưng nhu cầu nhập khẩu khá lớn, vòng quay tiêu dùng ở thị trường Israel nhanh, thể hiện ở trị giá nhập khẩu hàng hóa tăng mạnh hàng năm. Tập quán và thói quen kinh doanh của các doanh nghiệp Israel là muốn mua hàng thành phẩm, đã qua chế biến, có giá trị gia tăng cao, được đóng gói sẵn bao bì hoàn chỉnh, nhất là đối với nhóm hàng lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng (thủy hải sản, hạt điều, cà phê, hạt tiêu, nước giải khát, bánh kẹo, quế, dệt may, giày dép các loại…), kể cả hàng điện tử và hàng gia dụng, để mang về đưa vào các kênh phân phối hoặc chuỗi siêu thị bán lẻ cho người tiêu dùng có thể sử dụng được ngay sau khi mua hàng. Đây chính là những yếu tố thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam tranh thủ khai thác cơ hội xuất khẩu hàng hóa có giá trị gia tăng cao sang thị trường Israel.
Thứ ba, đối với tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, Israel yêu cầu hàng hóa nhập khẩu phải tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn bản địa nhiều khi mang tính chất đặc thù. Bên cạnh đó, Israel cũng áp dụng theocác tiêu chuẩn của EU, Mỹ và thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát khá nghiêm ngặt.Để tăng cường nguồn cung cấp hàng hóa từ bên ngoài và tính cạnh tranh trên thị trường, Israel đã thực hiện một số cải cách nhập khẩu và tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế được công nhận ở những nước phát triển.
Về việc này, Thương vụ Việt Nam tại Israel đã xuất bản các ấn phẩm Sổ tay các quy định, tiêu chuẩn nhập khẩu nông sản và thực phẩm vào Israel trong năm 2021; ấn phẩm Sổ tay rà soát chính sách nhập khẩu mới của Israel trong năm 2022. Các doanh nghiệp có thể tham khảo các ấn phẩm này đã được Thương vụ đăng tải công bố trên các trang mạng Internet.
Thứ tư, thời gian qua, Thương vụ thường xuyên cung cấp các thông tin về diễn biến thị trường, các thay đổi về chính sách thương mại và quy định nhập khẩu mới, xuất bản các ấn phẩm hướng dẫn doanh nghiệp, định hướng mặt hàng xuất khẩu, cơ hội giao thương, trực tiếp giới thiệu đối tác bạn hàng, đăng tải danh sách các công ty kinh doanh của Israel có nhu cầu tìm kiếm nhà cung cấp và đối tác tại Việt Nam, giúp xác minh thẩm tra tư cách pháp nhân, tổ chức các sự kiện xúc tiến thương mại và kết nối giao thương, tham dự các triển lãm giới thiệu quảng bá mặt hàng xuất khẩu và doanh nghiệp Việt Nam để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường và thiết lập quan hệ hợp tác kinh doanh với đối tác tại Israel.
Thứ năm, doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu Việt Nam cần chú trọng chào hàng các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao, với giá cả cạnh tranh sát thực và chất lượng phù hợp, trả lời nhanh chóng các giao dịch với khách hàng người mua Israel, tuân thủ các yêu cầu về tiêu chuẩn và quy định nhập khẩu của Israel mới ban hành.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực quan tâm, đầu tư khai thác thị trường Israel; cụ thể là chủ động sang khảo sát, tìm hiểu thị trường, tham dự các hội chợ, triển lãm, sự kiện xúc tiến thương mại, kết nối giao thương được tổ chức tại Israel, trực tiếp gặp gỡ đối tác bạn hàng để phát hiện ra nhu cầu hợp tác của nhau, qua đó góp phần thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần thường xuyên theo dõi sát những diễn biến về an ninh chính trị tại Israel, do đây là địa bàn nhạy cảm về các xung đột và bất ổn có ảnh hưởng tới toàn bộ khu vực, để có đối sách kịp thời về các giao dịch ký kết hợp đồng mua bán, chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu và bảo đảm lợi ích kinh doanh.
Cuối cùng, trong trường hợp cần thiết, các doanh nghiệp nên liên hệ với Thương vụ – Đại sứ quánViệt Nam tại Israel để được hỗ trợ và tư vấn kịp thời cũng như được cung cấp các thông tin hữu ích khi giao dịch, hợp tác kinh doanh với các đối tác bạn hàng tại thị trường Israel.
Trên đây là những nội dung doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý khi giao dịch, làm ăn với thị trường, các đối tác và xuất khẩu hàng hóa sang Israel./.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cho biết, tháng 2/2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Hà Lan đạt 4,1 nghìn tấn, trị giá 10,11 triệu USD, tăng 24,1% về lượng và tăng 18,1% về trị giá so với tháng 1/2023, so với tháng 2/2022 tăng 110,3% về lượng và tăng 136,6% về trị giá.
Xuất khẩu cà phê sang Hà Lan tăng mạnh về giá trị
Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê sang thị trường Hà Lan đạt 7,42 nghìn tấn, trị giá 18,77 triệu USD, tăng 93,1% về lượng và tăng 105,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Tháng 2/2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam sang thị trường Hà Lan đạt mức 2.461 USD/ tấn, giảm 4,8% so với tháng 1/2023, nhưng tăng 12,5% so với tháng 2/2022. Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam sang Hà Lan đạt mức 2.517 USD/tấn, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2022.
Trước đó, trong tháng 1/2023, Việt Nam xuất khẩu cà phê Robusta sang Hà Lan đạt 2,53 nghìn tấn, trị giá 5,02 triệu USD, giảm 20% về lượng và giảm 19,9% về trị giá so với tháng 12/2022, nhưng tăng mạnh 60,6% về lượng và tăng 56,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Xuất khẩu cà phê Arabica sang Hà Lan đạt 709 tấn, trị giá 2,97 triệu USD, giảm 25,1% về lượng và giảm 26,5% về trị giá so với tháng 12/2022, nhưng so với tháng 1/2022 tăng mạnh 310,4% về lượng và tăng 251,1% về trị giá.
Theo số liệu từ Cơ quan Thống kê châu Âu, giai đoạn 2017 – 2021, nhập khẩu cà phê của thị trường Hà Lan từ thế giới tăng trưởng bình quân 1,01%/năm tính theo lượng và tăng 0,34%/năm tính theo trị giá, từ 261,1 nghìn tấn, trị giá 1,1 tỷ EUR năm 2017 lên xấp xỉ 262 nghìn tấn, trị giá 1,04 tỷ EUR năm 2021.
Năm 2022, nguồn cung cà phê cho Hà Lan chủ yếu từ thị trường nội khối EU, trong đó, thị trường cung cấp cà phê cho Hà Lan chủ yếu từ Bỉ, Đức, Pháp, Phần Lan, Italia. Nhập khẩu cà phê của Hà Lan từ thị trường ngoại khối EU cũng tăng trưởng 2 con số. Trong đó, Việt Nam là nguồn cung ngoại khối lớn thứ 2 cho Hà Lan.
Hà Lan hiện đứng thứ 5 thế giới về lượng tiêu thụ cà phê. Tổng giá trị tiêu thụ cà phê tại Hà Lan khoảng 3,5 tỷ euro mỗi năm. Đặc biệt, Hà Lan là cửa ngõ quan trọng trên thế giới với lượng cà phê nhập khẩu và tái xuất sang các nước khác trong khu vực.
Các chuyên gia nhận định, đối với các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ, muốn thâm nhập thị trường châu Âu, Hà Lan chính là bước khởi đầu đúng đắn và thuận lợi để mở rộng thị trường sau này.
Tuy nhiên xuất khẩu cà phê cần đảm bảo chất lượng và những yêu cầu khắt khe từ thị trường Hà Lan và châu Âu. Do đó, doanh nghiệp Việt Nam cần đảm bảo chất lượng sản phẩm, cung cấp các hạt cà phê sạch, đáp ứng chất lượng và các chỉ số mà thị trường mục tiêu yêu cầu. Tìm hiểu kỹ thị trường Hà Lan, về nhu cầu người tiêu dùng, logistics, hệ thống phân phối,… để đáp ứng đúng và đủ theo quy định.
Ớt dạng quả muốn xuất khẩu sang Hàn Quốc cần có kết quả kiểm nghiệm của 8 phòng thí nghiệm đã được Bộ An toàn Dược phẩm và Thực phẩm Hàn Quốc chấp thuận.
Theo Công hàm số KEV-23-266 của Đại sứ quán Hàn Quốc gửi Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Bộ An toàn Dược phẩm và Thực phẩm Hàn Quốc yêu cầu cá nhân, doanh nghiệp xuất khẩu ớt Việt Nam phải có kết quả kiểm nghiệm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật do các phòng thử nghiệm được Bộ này chấp thuận.
Hàn Quốc chỉ chấp thuận kết quả kiểm nghiệm ớt từ 8 đơn vị
Tính đến hết tháng 2/2023, Bộ An toàn Dược phẩm và Thực phẩm Hàn Quốc chấp thuận 8 phòng thí nghiệm gồm: 6 Trung tâm Chất lượng nông lâm thủy sản vùng 1-6, đóng tại Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hòa, TP. Hồ Chí Minh, Cà Mau, Cần Thơ; cùng 2 phòng thí nghiệm độc lập là Công ty Intertek chi nhánh Cần Thơ và Công ty SGS Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh.
Ớt dạng quả, muốn xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc cần có kết quả kiểm nghiệm của 8 phòng thí nghiệm trên kèm theo lô hàng xuất khẩu. Thời gian tạm thời áp dụng các yêu cầu kiểm tra nêu trên là 1 năm, bắt đầu từ ngày 31/3/2023 đến hết 30/3/2024.
Hàn Quốc hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 2 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang Hàn Quốc đạt 3,79 tỉ USD, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm 7,6% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Xứ kim chi cũng là thị trường lớn duy nhất có kim ngạch tăng trưởng dương, trong khi xuất khẩu sang một số thị trường khác như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc… đều bị sụt giảm.
Theo Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam, năm 2022, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 4.900 tấn ớt, với kim ngạch đạt 11,9 triệu USD. So với năm 2021, cả giá trị lẫn sản lượng xuất khẩu ớt của nước ta đều giảm.
Cùng với hồ tiêu, quế, hồi, gừng, nghệ… ớt được xếp vào nhóm gia vị. Thị trường chính của mặt hàng này có Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước Ả Rập, Ấn Độ và Nga.