Nestlé Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm “Made in Vietnam” giá trị cao

Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm “Made in Vietnam” giá trị cao, Nestlé Việt Nam kỳ vọng tiếp tục tăng trưởng xuất khẩu ở mức 2 con số trong năm 2023.

Với chiến lược đưa thị trường Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và cung ứng thực phẩm và đồ uống ra thế giới, Nestlé Việt Nam đã đầu tư thêm 132 triệu USD vào cuối năm 2021.

Nestlé Việt Nam đang mở rộng các dây chuyền sản xuất sản phẩm giá trị cao

Mục tiêu của doanh nghiệp nhằm tăng gấp đôi công suất chế biến cà phê chất lượng cao, phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu các sản phẩm đến hơn 25 quốc gia, bao gồm các thị trường khó tính tại châu Âu, Nhật Bản, Mỹ…

Cụ thể, Nestlé Việt Nam đang mở rộng các dây chuyền sản xuất sản phẩm giá trị cao như cà phê viên nén Nescafé Dolce Gusto, cà phê sấy lạnh,… Trong đó, một số dòng sản phẩm cà phê trước đây chỉ nhập khẩu từ châu Âu nay lần đầu được sản xuất tại Việt Nam.

Bên cạnh việc đầu tư công nghệ, Nestlé Việt Nam tăng cường hoạt động nghiên cứu và phát triển, đa dạng hóa danh mục sản phẩm và tạo ra các giá trị gia tăng nhằm tiếp cận và khai thác những thị trường khó tính.

Như với thị trường Nhật Bản, trước năm 2020, Nestlé Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cà phê hòa tan thô, hạt cà phê decaf thô (hạt cà phê được tách caffeine). Tuy nhiên, từ năm 2020 đến 2023, các sản phẩm xuất sang thị trường này được đa dạng hóa, bao gồm nước tương Maggi, bột thức uống lúa mạch MILO, cà phê sấy lạnh, trà vị chanh Nestea, cà phê hòa tan Nescafe 3in1.

Doanh nghiệp cũng chủ động phát triển sản phẩm theo yêu cầu riêng biệt của từng thị trường để tăng giá trị xuất khẩu, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng, an toàn thực phẩm dành cho các nhóm khách hàng khác nhau, như các sản phẩm Halal (dành cho người Hồi giáo) hay Kosher (dành cho người Do Thái), thiết kế bao bì sản phẩm theo hướng tái chế được.

Bà Nguyễn Trần Hoàng Yến – Giám đốc Chuỗi cung ứng của Nestlé Việt Nam – cho biết, hướng đến đảm bảo xuất khẩu bền vững và gia tăng giá trị cho sản phẩm “Made in Vietnam”, chúng tôi không ngừng đầu tư công nghệ, chuỗi giá trị và đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường cũng như các yêu cầu riêng biệt của các thị trường khó tính. Năm nay, xuất khẩu của công ty được kỳ vọng tiếp tục tăng trưởng khả quan.

Thu mua bền vững và có trách nhiệm là một trong những tiêu chí kinh doanh của Tập đoàn Nestlé. Hiện Nestlé Việt Nam sử dụng nguồn cà phê được thu mua có trách nhiệm, đạt các tiêu chuẩn, như: Bộ tiêu chí quốc tế 4C, chứng nhận Rainforest Alliance (tiêu chuẩn phát triển nông nghiệp bền vững), chứng nhận cà phê hữu cơ,…

Từ năm 2011 đến nay, Nestlé đã đồng hành cùng người nông dân trồng cà phê tại khu vực Tây Nguyên, hoàn thiện chuỗi liên kết giá trị từ người nông dân đến người tiêu dùng, giúp kiểm soát và nâng cao chất lượng sản phẩm, cũng như đảm bảo bền vững về môi trường.

Việc đẩy mạnh hoạt động chế biến sâu, đầu tư nâng cao giá trị sản phẩm đã góp phần gia tăng giá trị nông sản trong nước và các sản phẩm xuất khẩu “Made in Vietnam” nói chung và của Nestlé Việt Nam nói riêng.

Trong năm 2022, xuất khẩu của Nestlé Việt Nam tăng khoảng 7% về lượng, nhưng tăng đến 30% về giá trị. Hiện sản phẩm của công ty được xuất khẩu sang hơn 30 thị trường trên thế giới.

Nhờ các nỗ lực trong việc gia tăng giá trị xuất khẩu của sản phẩm “Made in Vietnam” nói chung và gia tăng giá trị cho hạt cà phê Việt nói riêng, Nestlé Việt Nam được vào danh sách “Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín” trong hai năm liền (2020, 2021) do Bộ Công Thương xét chọn.

Nguồn: congthuong.vn

ASEAN là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 4 của Việt Nam trong tháng 1/2023

Tháng 1/2023, mặc dù kiem ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ nhưng ASEAN vẫn là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 4 của Việt Nam.

 

Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), tháng 1/2023, ASEAN là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 4 của Việt Nam sau Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU, đạt 49,5 triệu USD, giảm 29,8% so với tháng 12/2022 và giảm 14,57% so với tháng 1/2022.

ASEAN là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 4 của Việt Nam trong tháng 1/2023

Tháng 1/2023, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Philippines, Indonesia, Brunei tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2022, trong khi xuất khẩu sang các thị trường còn lại trong khối ASEAN giảm mạnh.

Thái Lan là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam trong ASEAN, đạt 22,6 triệu USD trong tháng 1/2023, giảm 11,36% so với tháng 12/2022 và giảm 22,37% so với tháng 1/2022.

Philippines là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 2 trong khối, đạt 11,8 triệu USD trong tháng 1/2023, giảm 43,62% so với tháng 12/2022, nhưng tăng 57,85% so với cùng kỳ năm 2022. Các thị trường xuất khẩu thủy sản lớn tiếp theo của Việt Nam trong khối ASEAN gồm Malaysia, Singapore …

Tháng 1/2023, tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường ASEAN trong tổng trị giá xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tăng lên 10,4% từ mức 7,13% của năm 2022. Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường ASEAN năm 2022 đạt 312,16 nghìn tấn, trị giá 779,06 triệu USD, tăng 15,1% về lượng và tăng 28,5% về trị giá so với năm 2021, chiếm 13,62% về lượng và chiếm 7,13% về trị giá trong tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.

Cá tra, basa là chủng loại thủy sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường ASEAN, chiếm 30,5% trong tổng lượng thủy sản xuất khẩu sang thị trường này năm 2022, đạt 95,3 nghìn tấn, trị giá 195,5 triệu USD, tăng 23,2% về lượng và tăng 55,3% về trị giá so với năm 2021. Các mặt hàng thủy sản chính xuất khẩu sang ASEAN tiếp theo gồm: chả cá, cá đông lạnh, mực các loại, tôm các loại…

Cá và các sản phẩm thủy sản là một trong những nguồn cung cấp protein chính đối với người tiêu dùng ASEAN với mức tiêu thụ bình quân đầu người của khu vực năm 2017 là 39,4 kg/người/ năm, gần gấp đôi mức tiêu thụ bình quân 20,3 kg/người/năm của thế giới (FAO, 2020).

ASEAN là thị trường thủy sản tiềm năng của Việt Nam trong thời gian tới khi nhu cầu tiêu thụ thủy sản của thị trường này được dự báo tiếp tục tăng lên 51,5 kg/người/năm vào năm 2030 và sẽ tăng lên 61,5 kg/người/năm tới năm 2050.

 

Nguồn: congthuong.vn

Áp dụng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu, trứng gia cầm từ Liên minh Kinh tế Á-Âu

Áp dụng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu, trứng gia cầm từ Liên minh Kinh tế Á-Âu, giai đoạn 2023 – 2027.

Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 04/2023/TT-BCT quy định về việc áp dụng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu, trứng gia cầm có xuất xứ từ các nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á – Âu giai đoạn 2023 – 2027.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/4/2023 đến hết ngày 31/12/2027.

Theo Thông tư, lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với thuốc lá nguyên liệu năm 2023, 2024, 2025, 2026, 2027 là 500 tấn mỗi năm.

Lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu năm 2023 là 11.257 tá trứng gia cầm

Đối với trứng gia cầm, lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu năm 2023 là 11.257 tá; năm 2024 là 11.820 tá, năm 2025 là 12.411 tá, năm 2026 là 13.031 tá và năm 2027 là 13.683 tá.

Hàng hóa nhập khẩu từ các nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á – Âu theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á – Âu phải có Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O mẫu EAV) cấp theo quy định hiện hành.

Hạn ngạch thuế quan nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu được phân giao cho thương nhân có giấy phép sản xuất thuốc lá điếu do Bộ Công Thương cấp và có nhu cầu sử dụng thuốc lá nguyên liệu nhập khẩu cho sản xuất thuốc lá điếu. Hạn ngạch thuế quan nhập khẩu trứng gia cầm được phân giao cho thương nhân có nhu cầu nhập khẩu.

Phương thức phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu, trứng gia cầm được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 12/2018/TT-BCT ngày 15/6/2018 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương và Nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương.

Nguồn: congthuong.vn

Đứng thứ 4 về tổng giá trị trên thị trường dừa thế giới, xuất khẩu dừa hướng mốc 1 tỷ USD

Năm 2022, xuất khẩu dừa và các sản phẩm từ dừa đã đạt trên 900 triệu USD. Ngành dừa Việt Nam đang đứng thứ 4 về tổng giá trị trên thị trường dừa thế giới.

Theo Hiệp hội Dừa Việt Nam, năm 2022, xuất khẩu dừa và các sản phẩm từ dừa đạt trên 900 triệu USD. Ngành dừa Việt Nam đang đứng thứ 4 về tổng giá trị trên thị trường dừa thế giới. Việt Nam cũng là nước xuất khẩu các sản phẩm từ dừa lớn thứ 4 trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Nghẽn thị trường, xuất khẩu dừa của các doanh nghiệp tại Bến Tre giảm mạnh.

Khẳng định, ngành dừa Việt Nam đang có những điều kiện thuận lợi cho phát triển, ông Cao Bá Đăng Khoa – Quyền Tổng thư ký Hiệp hội Dừa Việt Nam – chia sẻ, Chính phủ tạo điều kiện xây dựng bộ nhận diện thương hiệu quốc gia cho ngành thực phẩm từ dừa; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa cây dừa vào Đề án phát triển cây công nghiệp chủ lực đến năm 2030…

Trong bối cảnh tác động của dịch Covid-19 khiến sức mua thị trường thế giới giảm đối với dừa nguyên liệu từ cuối năm 2022 khiến giá nguyên liệu dừa trong nước cũng giảm theo. Tuy nhiên, ông Khoa cho biết, dừa trái ở các vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn sản xuất hữu cơ vẫn giữ được giá tốt, thậm chí trong quý I/2023 có xu hướng tăng.

Do vậy, một trong những chương trình trọng tâm của Hiệp hội Dừa Việt Nam năm nay là triển khai xây dựng vùng nguyên liệu bền vững để người nông dân trồng dừa được hưởng giá nguyên liệu minh bạch, nâng cao giá trị của dừa trái và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp ngành dừa Việt trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, để mở rộng đầu ra cho trái dừa, trong năm 2023, Hiệp hội dừa Việt Nam sẽ đẩy mạnh các hoạt động giao thương kích cung kích cầu cho thị trường.

Về phía doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Trúc Liên – Giám đốc Khối nguyên liệu của Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Bến Tre (Betrimex) – nhận định, sản phẩm dừa Việt Nam có tiềm năng rất lớn, nhất là các sản phẩm chế biến sâu, áp dụng công nghệ cao, sản xuất theo hướng hữu cơ …

Hiện, hai vùng nguyên liệu chính tại Bến Tre và Tiền Giang cơ bản đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới. Tuy nhiên, mùa xâm nhập mặn hằng năm ở Đồng bằng sông Cửu Long đang làm giảm năng suất và sản lượng, gây thiếu hụt nguyên liệu dừa trái phục vụ chế biến xuất khẩu.

Do vậy, bên cạnh chương trình xây dựng các vùng trồng bền vững, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu dừa dành nguồn lực nghiên cứu phát triển phôi dừa chống chịu được hạn mặn và chính sách hỗ trợ phân bón cho người nông dân trồng dừa giảm chi phí đầu vào.

Cả nước hiện có 90 doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm từ dừa, trong đó có 42 doanh nghiệp đã xuất khẩu những sản phẩm chế biến sâu “Made in Vietnam”. Hiện nay ngành dừa không đơn thuần là những doanh nghiệp chuyên sản xuất về dừa mà còn có nhiều doanh nghiệp khai thác nguyên liệu từ dừa như sản xuất thực phẩm, sản xuất tinh dầu trong lĩnh vực y tế. Đặc biệt, thân cây dừa đang có tiềm năng khai thác lớn để cho ra sản phẩm gỗ dừa.

Theo ông Cao Bá Đăng Khoa, với định hướng phát triển chuỗi giá trị bền vững từ vùng trồng, đầu tư công nghệ chế biến sâu thì giá trị xuất khẩu dừa và các sản phẩm từ dừa của nước ta hoàn toàn có thể vượt con số 1 tỷ USD trong vòng 2 năm tới.

 

Nguồn: congthuong.vn

Xuất khẩu thủy sản bật tăng trở lại trong nửa đầu tháng 2/2023

Sau khi “tụt dốc” trong tháng 1/2023, bước sang nửa đầu tháng 2, xuất khẩu thủy sản bật tăng trở lại, đạt 286,94 triệu USD, tăng 42% so với cùng kỳ năm 2022.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, nửa đầu tháng 2/2023, Việt Nam xuất khẩu thủy sản đạt 286,94 triệu USD, tăng 42% so với cùng kỳ năm 2022.

Xuất khẩu thủy sản bật tăng trở lại trong nửa đầu tháng 2/2023

Tuy nhiên, tính lũy kế từ đầu năm 2023 đến hết ngày 15/2, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 742 triệu USD, giảm 30% so với cùng kỳ năm 2022.

Đà giảm diễn ra trong bối cảnh xuất khẩu thủy sản của Việt Nam giảm sút trong quý 4/2022 và tiếp tục giảm trong tháng 1/2023 khi Tết, kỳ nghỉ lễ lớn nhất năm tại Việt Nam diễn ra.

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam nhận định, bức tranh xuất khẩu thủy sản khó có thể bừng sáng trong những tháng đầu năm khi mà nền kinh tế thế giới được dự báo có thể sẽ rơi vào suy thoái trong năm nay.

Xuất khẩu thủy sản kỳ vọng vào Trung Quốc khi thị trường này mở cửa trở lại, tuy nhiên, sự phục hồi này được đánh giá là phải từ quý II/2023. Đồng thời, ngành thủy sản của Việt Nam vẫn có sự lạc quan tại các thị trường có nền kinh tế tăng trưởng trong năm 2023 như khu vực châu Á, Trung Đông…

 

Nguồn:  congthuong.vn/

Xuất khẩu điều: Đảm bảo tấm vé “xanh” vào các thị trường cao cấp

Các doanh nghiệp xuất khẩu điều cần tập trung thực hiện truy xuất nguồn gốc, xây dựng chuỗi giá trị để đảm báo tấm vé “xanh” vào các thị trường cao cấp như EU..

Nhiều thách thức tăng trưởng

Phát biểu tại Hội nghị điều quốc tế Việt Nam lần thứ 12, ông Phạm Văn Công, Chủ tịch Hiệp hội Điều Việt Nam (VINACAS) cho biết, năm 2023, mặc dù thị trường nông sản toàn cầu được dự báo sẽ có nhu cầu lớn về lương thực, thực phẩm, việc mở rộng thị trường xuất khẩu song hành với chú trọng thị trường trong nước sẽ là cơ sở để ngành nông nghiệp Việt Nam hướng đến mục tiêu xuất khẩu nông – lâm – thủy sản 54 tỷ USD năm 2023 (tăng 780 triệu USD so với năm 2022). Tuy nhiên, theo đánh giá của Hội đồng Thông tin VINACAS, tính đến tháng cuối của năm 2022 và năm 2023, hoạt động sản xuất cũng như chuỗi cung ứng ngành điều toàn cầu và ở Việt Nam tiếp tục còn gặp rất nhiều khó khăn.

Ông Công dự báo tăng trưởng của ngành điều sẽ bị tác động đáng kể do nhu cầu tiêu thụ điều nhân toàn cầu tiếp tục ảm đạm; thị trường nguyên liệu điều thế giới sẽ gặp nhiều thách thức. Năm 2023, ngành điều đặt mục tiêu xuất khẩu đạt mức 3,1 tỷ USD, tăng nhẹ 30 triệu USD so với năm 2022. Hiệp hội duy trì chủ trương “giảm lượng, tăng chất”…

Ông Vũ Thái Sơn – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần điều Long Sơn cho biết, điểm sáng trong năm 2023 có thể đến từ Trung Quốc nhưng thị phần của thị trường này chưa lớn, thời điểm cao nhất mới chỉ chiếm khoảng 10% xuất khẩu nhân điều của Việt Nam. Một số thị trường đang có sự ổn định như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc … thì lượng hạt điều tiêu thụ không nhiều. Trong khi đó, 2 thị trường ăn nhiều hạt điều nhất là Mỹ và EU thì vẫn rất khó khăn. Do đó, thị trường nhân điều năm 2023 vẫn chưa sáng sủa.

Xuất khẩu điều đối mặt nhiều thách thức trong năm 2023.

Đồng quan điểm, ông Trần Văn Hiệp – Phó Chủ tịch Hiệp hội điều Việt Nam cho biết, sau tết, nông dân đã bắt đầu thu hoạch điều, các doanh nghiệp cũng đã bắt đầu xử lý nguyên liệu, chế biến, nhưng hợp đồng còn khá ít. Trước đây, ngay từ đầu mỗi năm, đa số nhà nhập khẩu đã ký hợp đồng mua nhân điều trong 6 tháng, nhiều hợp đồng tới 9 tháng hoặc hơn. Nhưng đầu năm 2023, nhà nhập khẩu nào ký hợp đồng với thời gian mua dài nhất cũng chỉ tới giữa năm, nhưng với số lượng hạn chế. Nhìn chung, các nhà nhập khẩu đang mua một cách cầm chừng. Chính vì vậy, ông Hiệp nhận định, trong thời gian tới, tình hình vẫn chưa có gì khả quan đối với các doanh nghiệp xuất khẩu điều.

Tăng xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường

Ông Michael Waring, Chủ tịch Hội đồng hạt và quả khô thế giới (INC) chỉ ra rằng, với hơn 2,4 tỷ người, thế hệ “gen Z” hiện đang là nhóm tiêu dùng chính và đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hàng của các hộ gia đình. Riêng tại Trung Quốc, 16,5% dân số thuộc thế hệ “gen Z”. Do đó, ngành điều cần đặc biệt quan tâm tới nhóm khách hàng này.

Cũng theo ông Michael Waring, các doanh nghiệp có thể tác động tới thế hệ “gen Z” thông qua các kênh trực tuyến, người nổi tiếng và xây dựng thương hiệu thực phẩm thông qua mô hình B2B, B2C. Chiến lược này đang được INC thực hiện tại thị trường Trung Quốc, tiếp đến sẽ tổ chức tại Ấn Độ – thị trường có hơn 100 triệu người “gen Z”, nơi các loại hạt và trái cây sấy được sử dụng rất nhiều…

Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại – Bộ Công Thương cho biết, chương trình xúc tiến thương mại quốc gia luôn giành sự ưu tiên cho các ngành xuất khẩu nông sản hàng đầu, trong đó có ngành điều. Thông qua chương trình, các doanh nghiệp có cơ hội nắm bắt yêu cầu của thị trường, nâng các chất lượng sản phẩm, và quảng bá thương hiệu ra quốc tế.

Riêng ngành điều, nhiều doanh nghiệp đã xây dựng được thương hiệu riêng trên kệ siêu thị tại các thị trường xuất khẩu trên thế giới, nhiều hơn hẳn các loại nông sản khác của Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian tới, doanh nghiệp và ngành điều cần có chiến lược bài bản cho việc xây dựng và quản trị thương hiệu để phát huy tối đa giá trị thương hiệu của một ngành đứng đầu thế giới.

Ông Phú cũng lưu ý về xu thế sản xuất và thương mại xanh, tăng trưởng xanh trên toàn cầu. Ngành điều cần tiên phong trong việc xanh hoá và thực hành sản xuất xanh. Hiện EU đang đi đầu về xu hướng này từ năm 2017. Từ đó đến nay, nhiều đạo luật đã được ban hành để hiện thực mục tiêu Net-Zero, cùng với đó là các tiêu chuẩn được đưa ra đối với các ngành hàng.

Theo đó, các doanh nghiệp cần tập trung thực hiện truy xuất nguồn gốc, xây dựng chuỗi giá trị cho toàn ngành để đảm báo tấm vé “xanh” vào các thị trường cao cấp như EU, Nhật Bản. Ông Phú nhấn mạnh, hiện trong ngành điều Việt Nam đã có một số doanh nghiệp thực hiện truy xuất nguồn gốc, nhưng để đảm bảo đáp ứng được các tiêu chuẩn mới thì toàn ngành cần thực hành mô hình quản trị theo chuỗi giá trị.

“Đây là điều hết sức quan trọng vì trong 5 năm tới, nếu không thực hiện được thì dù có là ngành đứng đầu thế giới thì hạt điều Việt Nam cũng sẽ rất khó đi vào các thị trường cao cấp như EU, Nhật Bản” – ông Vũ Bá Phú khuyến nghị.

 

 

Nguồn: congthuong.vn

2 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 96,06 tỷ USD

Trong tháng 2, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 49,46 tỷ USD, lấy lại đà tăng ở mức 6,1% so với tháng trước và 1,8% so với cùng kỳ năm trước.

Xuất nhập khẩu lấy lại đà tăng trưởng

Tính chung hai tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 96,06 tỷ USD, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 10,4%; nhập khẩu giảm 16%. Cán cân thương mại hàng hóa hai tháng đầu năm 2023 ước tính xuất siêu 2,82 tỷ USD.

Xuất nhập khẩu hàng hóa lấy lại đà tăng trưởng

Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 02/2023 ước đạt 25,88 tỷ USD, tăng 9,8% so với tháng trước.Tính chung hai tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 49,44 tỷ USD, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 11,52 tỷ USD, giảm 21,1%, chiếm 23,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 37,92 tỷ USD, giảm 6,6%, chiếm 76,7%. Trong hai tháng đầu năm 2023, có 08 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 69,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 03 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 45,9%).

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu hai tháng đầu năm 2023, hàng nhiên liệu và khoáng sản ước đạt 652 triệu USD, chiếm 1,3%; hàng công nghiệp chế biến ước đạt 44,38 tỷ USD, chiếm 89,8%; hàng nông sản, lâm sản ước đạt 3,4 tỷ USD, chiếm 6,9%; hàng thủy sản ước đạt 1,01 tỷ USD, chiếm 2%.

Kim ngạch xuất nhập khẩu đã dần lấy lại đà tăng trưởng sau khi các doanh nghiệp quay trở lại sản xuất để đáp ứng các đơn hàng xuất khẩu đã ký kết trước đó. Bên cạnh đó, các Hiệp định thương mại tự do cũng đang được các doanh nghiệp tận dụng tương đối tốt.

Thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường các nước CPTPP năm 2022 đã tăng đến trên 30% so với năm 2021. Riêng mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Canada tăng trưởng trên 50% so với cùng kỳ. Bà Võ Hồng Anh, Phó Vụ trưởng Vụ thị trường Châu Âu – Châu Mỹ – Bộ Công Thương cho biết, xuất khẩu sang 4 thị trường khu vực châu Mỹ trong CPTPP (gồm Canada, Mexico, Peru, Chile) đã chứng kiến sự tăng trưởng rất mạnh. Trong đó, Việt Nam mới chỉ có FTA song phương với Chile (từ năm 2014). Nhờ vào lợi thế ưu đãi thuế quan từ hiệp định CPTPP đã đem lại nhiều dư địa cho doanh nghiệp Việt khai thác xuất khẩu sang các thị trường mới này. Đến thời điểm đầu năm 2023, doanh nghiệp vẫn được hưởng lợi từ CPTPP tương đối tốt.

Thêm một FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao nữa là Hiệp thương mại thương mại tự do giữa Việt Nam với Liên hiệp Vương Quốc Anh và Bắc Ailen (UKVFTA). Qua gần 2 năm có hiệu lực (Hiệp định được áp dụng tạm thời kể từ đầu năm 2021 và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/5/2021), mặc dù bị ảnh hưởng không nhỏ bởi đại dịch Covid-19, song kim ngạch thương mại hàng hóa hai chiều giữa Việt Nam và Vương quốc Anh vẫn đạt tăng trưởng cao, ở mức 2 chữ số. Trong đó, xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Anh tăng 15,4%. Các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam sang Vương quốc Anh tăng trưởng rất tốt, cho giá trị cao như cà phê, hạt tiêu, cao su, rau quả, may mặc, giày dép… và đã có những mặt hàng tăng trưởng đến gần 100%.

Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 02/2023 ước đạt 23,58 tỷ USD, tăng 2,3% so với tháng trước. Tính chung hai tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 46,62 tỷ USD, giảm 16% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 15,21 tỷ USD, giảm 17,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 31,41 tỷ USD, giảm 15,3%.

Trong hai tháng đầu năm 2023 có 13 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 69,1% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 02 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 39,3%).

Cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu hai tháng đầu năm 2023 vẫn tập trung chủ yếu vào nhóm hàng tư liệu sản xuất, ước đạt 43,64 tỷ USD, chiếm 93,6%, trong đó hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 46,3%; hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 47,3%. Hàng vật phẩm tiêu dùng ước đạt 2,98 tỷ USD, chiếm 6,4%.

Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa hai tháng đầu năm 2023, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 13,1 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 14,6 tỷ USD. Trong hai tháng đầu năm 2023, xuất siêu sang EU ước đạt 4,8 tỷ USD, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 6,4 tỷ USD, giảm 39,8%; nhập siêu từ Hàn Quốc 4,7 tỷ USD, giảm 27,2%; nhập siêu từ ASEAN 1,5 tỷ USD, giảm 23,9%; nhập siêu từ Nhật Bản 237,2 triệu USD, tăng 4,5%.

Cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ tháng Một xuất siêu 0,52 tỷ USD; tháng Hai ước tính xuất siêu 2,3 tỷ USD. Tính chung hai tháng đầu năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 2,82 tỷ USD (cùng kỳ năm trước nhập siêu 0,3 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 3,69 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 6,51 tỷ USD.

Khai mở các thị trường mới

Để nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu trong thời gian tới, bên cạnh việc giữ vững các thị trường truyền thống, Bộ Công Thương khuyến cáo doanh nghiệp cần nỗ lực tối đa để phát triển thị trường mới, mặt hàng mới như các thị trường Tây Á, Nam Á, châu Phi, Mỹ La tinh để hàng Việt Nam vươn xa hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thế giới.

Có thể thấy thị trường mới đang là mảnh đất tiềm năng để doanh nghiệp nắm bắt cơ hội. Như tại thị trường châu Phi, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, năm 2022, kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang Algeria đạt hơn 141 triệu USD, giảm 7,8% so với năm 2021. Những mặt hàng xuất khẩu chính là cà phê, hóa chất, hàng thủy sản, kim loại và sản phẩm, hạt tiêu. Đáng chú ý, năm 2022, Việt Nam đã xuất được mặt hàng gạo trở lại, đạt kim ngạch hơn 218.000 USD sau khi năm 2021 không thâm nhập được thị trường này.

Tuy nhiên, Bộ Công Thương cũng khuyến cáo, với thị trường châu Á, châu Phi, để tận dụng tốt các FTA thì doanh nghiệp phải đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào cho hàng hoá xuất khẩu. Cùng với đó, phải đẩy mạnh xuất khẩu sang một số thị trường ngách, thị trường tiềm năng như Bangladesh, Pakistan và coi các thị trường này là “bàn đạp” để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Ấn Độ – thị trường có sức mua lớn của hơn 1,4 tỷ dân… Hoặc thị trường châu Phi với nhu cầu nhập khẩu hàng hóa lên đến 600 tỷ USD/năm nhưng Việt Nam mới khai thác được 0,6% thị phần.

Nguồn: “congthuong.vn”

Thêm 230 mã số vùng trồng sầu riêng vừa được Hải quan Trung Quốc cấp phép

163 mã số vùng trồng sầu riêng và 67 mã số cơ sở đóng gói vừa được Tổng cục Hải quan Trung Quốc phê duyệt.

Theo Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), toàn bộ mã số mới sầu riêng vừa được Tổng cục Hải quan Trung Quốc phê duyệt vào ngày 23/2, trong đó, 3 tỉnh Gia Lai, Lâm Đồng và Tiền Giang được cấp nhiều mã vùng trồng nhất. Tiền Giang cũng là tỉnh được cấp nhiều mã số cơ sở đóng gói nhất, với tổng cộng 27 mã.

Lễ hội Sầu riêng huyện Krông Pắc lần thứ nhất khai mạc tại Trung tâm thị trấn Phước An và một số xã trên địa bàn huyện Krông Pắc.

Như vậy, đến nay, Việt Nam hiện có 246 mã số vùng trồng và 97 mã số cơ sở đóng gói đáp ứng đầy đủ yêu cầu của phía Trung Quốc.

Ngày 7/9/2022, Tổng cục Hải quan Trung Quốc lần đầu tiên phê duyệt 51 mã số vùng trồng và 25 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng của Việt Nam được phép xuất khẩu sang thị trường nước này.

Trước đó, Hải quan Trung Quốc đã cử 25 cán bộ kiểm tra trực tuyến 29 cơ sở đóng gói và hơn 100 mã số vùng trồng sầu riêng, cơ sở đóng gói của Việt Nam để cấp mã số xuất khẩu sang Trung Quốc. Cục Bảo vệ thực vật cũng bố trí 22 cán bộ phối hợp với địa phương để hỗ trợ ngôn ngữ cho các cơ sở đóng gói và vùng trồng sầu riêng trong quá trình kiểm tra.

Sầu riêng là trái cây cho giá trị kinh tế cao. Cục Bảo vệ thực vật đề nghị địa phương, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp tăng cường, thúc đẩy xuất khẩu chính ngạch, giúp người nông dân thu được lợi nhuận cao hơn từ loại quả đặc sản này.

Nguồn : “https://mrl.com.vn/”

Vì sao xuất khẩu gạo giảm mạnh trong tháng đầu năm?

Trong tháng 1/2023 xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm mạnh 20% về khối lượng và 17,4% về giá trị so với cùng kỳ, giá xuất khẩu cũng thấp hơn Thái Lan.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tháng 1/2023 xuất khẩu gạo của Việt Nam ước đạt 400.000 tấn với giá trị 203 triệu USD, giảm lần lượt 20,9% và 17,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Cũng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, không chỉ giảm về sản lượng, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng quay đầu và thấp hơn so với hàng Thái Lan 50 USD một tấn.

Theo đó, trong tháng đầu tiên của năm 2023, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan đã chạm mức cao nhất trong gần 2 năm nhờ đồng baht tăng giá và sức mua mạnh mẽ trên thị trường. Giá gạo tiêu chuẩn 5% tấm của Thái Lan tính đến cuối tháng 1/2023 ở mức 500 USD/tấn, tăng 35 USD so với 452 – 465 USD/tấn đầu tháng. Đây là mức cao nhất kể từ tháng 3/2021. Trong khi đó, giá gạo xuất khẩu 5% tấm của Việt Nam chỉ dao động từ 450 – 473 USD/tấn.

Xuất khẩu gạo tháng 1 giảm mạnh

Nói về nguyên nhân giá gạo giảm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng, do nhu cầu tiêu thụ trên thế giới giảm. Trong khi đó lượng tồn kho ở nhiều nước còn cao. Báo cáo tháng 1 của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cũng dự báo, nhu cầu gạo năm nay chỉ đạt khoảng 54,4 triệu tấn, giảm 4% so với kỷ lục năm ngoái và lần đầu tiên giảm kể từ năm 2019.

Ngoài nguyên nhân khách quan do nhu cầu thị trường giảm thì nhiều doanh nghiệp cũng đang gặp khó về tài chính, dẫn đến không kịp thu mua lúa ở thời điểm giá tốt. Đơn cử Công ty TNHH Lương thực thực phẩm Long An. Chia sẻ với phóng viên, bà Đặng Thị Liên- Giám đốc doanh nghiệp này cho biết, trong tháng 1/2023 doanh nghiệp hầu như chưa xuất khẩu được gì bởi vụ mùa tới trễ, giá lúa cao và không kịp thu mua. “Nhu cầu thị trường vẫn có song doanh nghiệp không dám ký vì hiện giá lúa đang ở mức cao. Nếu ký trước, nhiều khả năng sẽ bị lỗ nặng”- bà Liên cho biết.

Được biết, tại thị trường trong nước, giá lúa ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long diễn biến tăng trong tháng 1/2023, với mức tăng tùy thuộc vào nhu cầu đối với từng chủng loại lúa. Cụ thể, tại An Giang, lúa thường IR50404 ở mức 6.400 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg so với thời điểm cuối tháng 12/2022; lúa chất lượng cao OM 5451 ở mức 6.400 đồng/kg, ổn định so với tháng trước. Tại Kiên Giang, lúa OM 5451 tăng 300 đồng/kg, từ 6.800 – 7.000 đồng/kg lên 7.000 – 7.300 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 tăng 300 đồng/kg, từ 7.000 – 7.200 đồng/kg lên 7.200 – 7.500 đồng/kg. Tại Vĩnh Long, lúa IR50404 vụ Đông Xuân sớm tăng mạnh từ 6.300 đồng/kg lên 7.300 đồng/kg.

Mặc dù tình hình thế giới dự báo khá khó khăn, theo các doanh nghiệp Việt, cuối quý I, xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ khởi sắc trở lại khi nguồn cung của thị trường dồi dào. Trong khi đó, Thái Lan – đối thủ cạnh tranh của Việt Nam – đang chịu sức ép về giá khi đồng baht tăng làm giảm lợi nhuận của các nhà phân phối ở nước ngoài.

2 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc vươn lên là thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất

2 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam, đạt 1,27 tỷ USD, chiếm 20,2% thị phần xuất khẩu.

Cụ thể, tháng 2/2023, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt trên 3,4 tỷ USD, tăng 5,7% so với tháng 02/2022 và tăng 18,1% so với tháng 01/2023; trong đó, nhóm nông sản chính xuất khẩu đạt 1,79 tỷ USD (tăng 25,9% so tháng 02/2022); chăn nuôi xuất khẩu đạt 29 triệu USD (tăng 46,5%); xuất khẩu đầu vào sản xuất đạt 158 triệu USD (giảm 5,2%),… xuất khẩu thủy sản đạt 550 triệu USD (giảm 13,1%)…

2 tháng đầu năm, Trung Quốc vươn lên là thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất

Về mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu cao hơn cùng kỳ gồm: Chè đạt 25 triệu USD (tăng 5,1%); nhóm rau quả đạt 592 triệu USD (tăng 17,8%); sắn và sản phẩm sắn đạt 283 triệu USD (tăng 32,7%); sữa và sản phẩm sữa đạt 16,2 triệu USD (tăng 10,2%); thịt, phụ phẩm 16,9 triệu USD (tăng 14,2%).

Những mặt hàng xuất khẩu giảm gồm: Cà phê đạt 703 triệu USD (giảm 14,6%); cao su 394 triệu USD (giảm 23,1%); gạo 417 triệu USD (giảm 10,8%), hạt điều 327 triệu USD (giảm 14,3%); hạt tiêu 129 triệu USD (giảm 7,4%); cá tra 133 triệu USD (giảm 64,1%); tôm 251 triệu USD (giảm 54,9%); gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,61 tỷ USD (giảm 34,8%); sản phẩm mây, tre, cói thảm đạt 106 triệu USD (giảm 39,8%).

Tính chung 2 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng nông lâm thủy sản ước đạt 11,99 tỷ USD, giảm 16,8% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó, xuất khẩu khoảng 6,28 tỷ USD, giảm 22,5% so với cùng kỳ năm ngoái; nhập khẩu ước khoảng 5,72 tỷ USD, giảm 9,5%; toàn ngành xuất siêu 559 triệu USD, giảm 68,5% so với cùng kỳ năm ngoái.

Về thị trường xuất khẩu, 2 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất, đạt 1,27 tỷ USD (chiếm 20,2% thị phần); đứng thứ 2 là Hoa Kỳ khoảng 1,19 tỷ USD (chiếm 19,0% thị phần); thứ 3 là Nhật Bản với giá trị xuất khẩu đạt 563 triệu USD (chiếm 9,0%); thứ 4 Hàn Quốc với giá trị xuất khẩu đạt 302 triệu USD (chiếm 4,8%).

Về giải pháp phát triển thị trường thúc đẩy tiêu thụ nông sản thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, sẽ tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh và biến động thị trường trong nước và thế giới.

Tận dụng các FTAs, đặc biệt là Hiệp định CPTPP, EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản chủ lực. Tiếp tục phối hợp hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở nước ngoài.

Chuẩn bị tổ chức Đoàn công tác làm việc với Hải quan Nam Ninh, Hải quan Vân Nam Trung Quốc để kết nối, xúc tiến thương mại; cập nhật, tháo gỡ các vướng mắc trong xuất khẩu nông lâm thủy sản.

Chuẩn bị tổ chức Diễn đàn xuất khẩu rau quả trong khuôn khổ Triển lãm quốc tế lần 5 chuyên ngành công nghệ sản xuất và chế biến rau hoa quả Việt Nam (Hortex Vietnam 2023) vào đầu tháng 3/2023.

Bên cạnh đó, theo dõi, nắm bắt tình hình giá cả, nguồn cung các mặt hàng lương thực thực phẩm thiết yếu; Phối hợp với các địa phương hỗ trợ kết nối, thúc đẩy chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông sản vào vụ thu hoạch….

Nguồn: “https://mrl.com.vn/2-thang-dau-nam-2023-trung-quoc-vuon-len-la-thi-truo-ng-xuat-khau-nong-lam-thuy-san-lon-nhat-244260.html”

 

Exit mobile version