Tổng cục Hải quan vừa công bố số liệu xuất khẩu từng ngành hàng chủ đạo tháng 2 và hai tháng đầu năm. Theo đó, trong 46 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chỉ có 9 mặt hàng tăng trưởng dương so với cùng kỳ trong hai tháng đầu 2022.
Xuất khẩu rau quả 2 tháng đầu năm tăng 12,4% so với cùng kỳ
Trong 9 mặt hàng ghi nhận tăng trưởng dương, xăng dầu các loại là mặt hàng tăng cao nhất so với cùng kỳ hai tháng 2022, với mức tăng 18,5%. Đứng thứ hai là hàng rau quả tăng 12,4%; dây điện và dây cáp điện tăng 9,6%. Các mặt hàng còn lại tăng trưởng dưới 6% gồm: phương tiện vận tải và phụ tùng; điện thoại và các loại linh kiện; đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận; sản phẩm hóa chất; dầu thô; gạo.
Xét về trị giá xuất khẩu, điện thoại các loại và linh kiện dẫn đầu với 9,2 tỷ USD tính từ đầu năm đến nay. Đây cũng là mặt hàng vẫn giữ được “phong độ” khi không rơi vào nhóm tăng trưởng âm. Theo số liệu mới nhất từ Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất khẩu từ đầu năm đến nay của mặt hàng này tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước.
Ở chiều ngược lại, các mặt hàng ghi nhận sự sụt giảm mạnh nhất là xơ, sợi dệt các loại với mức giảm 38,4%; sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ giảm 34,1% và gỗ và sản phẩm gỗ giảm 31,8%; hàng thủy sản giảm 29,1%; cao su giảm 28,3%; sắt thép các loại giảm 25,7%; hóa chất giảm 24%; sản phẩm từ chất dẻo giảm 20,5%; hàng dệt may giảm 19,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày giảm 16,6%; giày dép các loại giảm 16%; túi xách, ví, va li, mũ, ô, dù giảm 15,3%; sản phẩm từ sắt thép giảm 11,5%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện goảm 10,9%; cà phê giảm 9,5%; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện giảm 8,5%; hạt điều giảm 7,4%; kim loại thường khác và sản phẩm giảm 6,9%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác giảm 3,5%.
Theo các chuyên gia, tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu hai tháng đầu năm giảm 10,4% so với cùng kỳ, cùng với việc khu vực sản xuất công nghiệp yếu đi cho thấy sức khỏe của nền kinh tế gặp thách thức lớn. Thực tế, từ những tháng cuối năm 2022, suy giảm xuất khẩu đã diễn ra ở nhiều lĩnh vực như dệt may, da giày; sản phẩm gỗ và máy móc,… Ngoài ra, rủi ro suy thoái kinh tế Mỹ càng khiến tình hình trở nên khó khăn hơn vì đây là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nhiều mặt hàng từ Việt Nam.
Những tháng đầu năm 2023, tỉnh Thừa Thiên Huế tập trung cao độ cho các chỉ tiêu phát triển kinh tế, trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng hai con số.
Theo Sở Công Thương Thừa Thiên Huế, 2 tháng đầu năm 2023 kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh Thừa Thiên Huế ước đạt hơn 136 triệu USD, tăng hơn 18% so với cùng kỳ. Riêng tháng 2/2023 kim ngạch xuất khẩu ước đạt 75 triệu USD, tăng 21,3% so với cùng kỳ.
Đáng chú ý, nhóm hàng nông lâm thuỷ sản tăng 19,5%; nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng hơn 30%, trong đó, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tăng tăng 21%; xơ sợi dệt các loại tăng 21%, hàng hoá khác tăng 23%…
Sản phẩm xuất khẩu hàng hoá tại Thừa Thiên Huế đến với 44 quốc gia trên thế giới, trong đó Hồng Kông chiếm tỷ lệ lớn nhất
Cũng theo Sở Công Thương Thừa Thiên Huế, hiện Hồng Kông là thị trường xuất khẩu chủ yếu, chiếm 38,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, với các mặt hàng như sản phẩm may mặc, đồ chơi trẻ em…; thị trường Hàn Quốc chiếm 12,7%, Trung Quốc chiếm 8,8%, Nhật Bản chiếm 7,3%; thị trường các nước ASEAN là 6,8%… với các sản phẩm may mặc, xơ sợi dệt, nguyên liệu sản xuất nến…. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU chiếm tỷ lệ thấp với khoảng 3,3% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Sở Công Thương Thừa Thiên Huế thông tin thêm, hiện nay thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã đến với 44 quốc gia trên thế giới. Bao gồm thị trường Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN, các nước châu Âu… Qua đó, góp phần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh phụ thuộc vào một số thị trường nhất định.
Đối với xuất khẩu ngành dệt may, những tháng đầu năm 2023, tình hình hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp tục phát triển khá tốt nhờ thị trường tiêu thụ phục hồi tích cực sau ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19.
Bên cạnh đó, việc doanh nghiệp đẩy mạnh ký kết hợp đồng tiêu thụ với các đối tác nước ngoài và năng lực tăng thêm của các dự án mới, như Nhà máy dệt Sunjin AT&C Vina, nhà máy sợi của Công ty CP Sợi Phú Bài, Công ty CP Vinatex Phú Hưng, Công ty Scavi tại Khu công nghiệp Phong Điền… đã góp phần thúc đẩy ngành dệt may đạt tăng trưởng khá.
Đại diện lãnh đạo Sở Công Thương Thừa Thiên Huế cho biết, tình hình suy thoái kinh tế thế giới sẽ còn tiếp tục trong năm 2023; xung đột Nga – Ukraine, dịch bệnh Covid-19 vẫn chưa chấm dứt sẽ tiếp tục tác động tiêu cực lên nền kinh tế các nước. Theo đó, dự báo thời gian tới thị trường xuất khẩu Việt Nam nói chung, tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng sẽ bị ảnh hưởng.
Tại cuộc họp với các doanh nghiệp đầu năm 2023, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế Nguyễn Văn Phương đánh giá, năm 2023 dự báo vẫn còn nhiều khó khăn, đòi hỏi các cấp các ngành phải tập trung cao độ, nêu cao quyết tâm hơn nữa để hoàn thành tất cả các chỉ tiêu kinh tế – xã hội. Các doanh nghiệp chủ động nắm tình hình, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường, xuất nhập khẩu sản phẩm hàng hoá…
Theo kế hoạch, kim ngạch xuất khẩu năm 2023 của tỉnh Thừa Thiên Huế phấn đấu đạt khoảng 1,3 tỷ USD.
Bộ Công Thương ban hàng Thông tư sửa đổi Thông tư về Quy tắc xuất xứ hàng hoá trong Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN.
Bộ Công Thương vừa ban hành Thông tư số 03/2023/TT-BCT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2016/TT-BCT ngày 3 tháng 10 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện Quy tắc xuất xứ hàng hoá trong Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN.
Thông tư này bãi bỏ Thông tư số 10/2019/TT-BCT ngày 22/7/2019 và Thông tư số 25/TT-BCT ngày 14/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương sửa đổi, bổ sung Thông tư số 22/2016/TT-BCT ngày 3/10/2016 của Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN.
Tháng 1/2023, xuất khẩu cá tra sang tất cả các thị trường chính đều giảm 2 con số. Trong đó, riêng thị trường Hoa Kỳ giảm sâu nhất với 81% so với tháng 1/2022.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, tháng 1/2023, xuất khẩu cá tra tiếp tục giảm sâu 61% so với cùng kỳ năm 2022 và giảm 44% so với tháng trước, chỉ đạt 83,6 triệu USD.
Xuất khẩu cá tra Hoa Kỳ sụt giảm rất mạnh trong tháng 1/2023
Xuất khẩu sang tất cả các thị trường chính đều giảm 2 con số. Trong đó, riêng thị trường Hoa Kỳ giảm sâu nhất, giảm 81% so với tháng 1/2022.
Đáng chú ý, tất cả các thông số chính của xuất khẩu cá tra sang Hoa Kỳ trong tháng qua đều ở mức âm sâu so với tháng 12/2022. Cụ thể, khối lượng xuất khẩu giảm 76% so với cùng kỳ năm trước và giảm 44% so với tháng trước. Giá trị xuất khẩu cá tra sang Mỹ trong tháng 1/2023 chỉ đạt 9,84 triệu USD, giảm 40% so với tháng 12/2022. Giá trung bình xuất khẩu cá tra sang thị trường này chỉ đạt 2,97 USD/kg, giảm 34% so với cùng kỳ năm 2022 và tương đương với giá xuất của tháng 12/2022.
Sụt giảm sâu và liên tục, Hoa Kỳ rơi xuống là thị trường nhập khẩu cá tra đứng thứ 3 sau Trung Quốc và cả EU. Tại Hoa Kỳ, lạm phát, giá thủy sản vẫn thấp hơn so với nhiều sản phẩm khác, nhưng giá tăng tiếp tục ảnh hưởng đến doanh số bán hàng.
Mặc dù giá thủy sản tại Hoa Kỳ tăng có thể không nghiêm trọng như các mặt hàng khác, nhưng vẫn ảnh hưởng đến nhu cầu của người tiêu dùng. Thực phẩm tươi sống, thịt và thủy sản mặc dù lạm phát ở mức dưới trung bình trong năm qua nhưng vẫn là một trong những mặt hàng được người tiêu dùng nhắc đến nhiều nhất khi nhắc đến tăng giá thực phẩm.
Tuy vẫn quan ngại về lạm phát, nhưng vẫn có một số tin tức kinh tế tích cực, theo đó năm 2023 dự báo lạm phát lương thực tổng thể sẽ thấp hơn vào so với năm 2022, lạm phát thủy sản cũng sẽ thấp hơn.
Ngày càng có nhiều người Hoa Kỳ chuẩn bị bữa ăn tại nhà để tiết kiệm, do vậy một số nhà bán lẻ đang quảng cáo các bữa ăn thủy sản với giá hợp túi tiền. Một số siêu thị đã tăng thêm các lựa chọn hải sản đông lạnh và hải sản bảo quản lâu trong bối cảnh lạm phát
Kỳ vọng là cá tra sẽ có cơ hội trước những điều chỉnh nhu cầu ở thị trường Hoa Kỳ cũng như những tín hiệu lạc quan hơn về tình hình lạm phát.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), tháng 1/2023, khối lượng cá tra xuất khẩu sang Brazil đạt 1.194 tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 5/2022. Giá trung bình xuất khẩu cá tra Việt Nam sang Brazil trong tháng 1 đạt 3,06 USD/kg, tăng 3% so với 2,98 USD/kg cùng kỳ năm ngoái. So với cùng kỳ, khối lượng cá tra xuất khẩu sang Brazil giảm 79%.
Giá xuất khẩu cá tra sang Brazil giảm 2 con số
Tháng 1/2022, khối lượng cá tra Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Brazil cũng đạt mức kỷ lục hàng tháng, sau đó giảm dần xuống mức thấp nhất sau 2 năm vào tháng 5 với chỉ 1,1 nghìn tấn.
Xuất khẩu hồi phục dần trong quý III/2022 nhưng bắt đầu giảm rõ rệt từ tháng 11/2022 tới nay, tương tự xu hướng của nhiều thị trường khác trước tác động của lạm phát và suy giảm kinh tế.
Năm 2022, xuất khẩu cá tra Việt Nam sang Brazil đạt trên 95 triệu USD, tăng 35% so với năm 2021, chủ yếu nhờ giá xuất khẩu trung bình tăng. Đỉnh điểm là tháng 7/2022, giá trung bình xuất khẩu cá tra sang Brazil đạt mức kỷ lục 3,55 USD/kg, tăng 51% so với cùng thời điểm năm trước đó.
Tính đến giữa tháng 2/2023, xuất khẩu cá tra Việt Nam sang Brazil đạt giá trị 10,5 triệu USD, giảm 51% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong xu hướng sụt giảm chung tới hầu hết các thị trường, Brazil vẫn giữ vị trí là thị trường nhập khẩu lớn thứ 4 của cá tra Việt Nam, chiếm gần 7% tỷ trọng.
Năm 2022, tổng nhập khẩu thủy sản nuôi trồng của Brazil giảm 1% về lượng nhưng tăng 23% về giá trị so với năm 2021, đạt 130.259 tấn, trị giá 897,8 triệu USD,… Giá trị nhập khẩu tăng chủ yếu do giá nhập khẩu cá hồi và cá tra tăng so với năm trước.
Trong số các loài cá nuôi chính được quốc gia Mỹ Latinh nhập khẩu vào năm 2022, cá hồi một lần nữa dẫn đầu danh sách với 100.330 tấn, tổng trị giá hơn 803 triệu USD và chiếm 91% tổng giá trị nhập khẩu. Khối lượng nhập khẩu cá hồi không đổi nhưng giá trị tăng 22%. Nhập khẩu cá tra vào Brazil cũng giữ nguyên về lượng nhưng tăng 45% về giá trị, đạt 28.407 tấn, trị giá 90,9 triệu USD.
2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 1,6 tỷ USD, giảm 34,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu Tổng cục Hải quan cho hay, ước tháng 2/2023, trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 800 triệu USD, giảm 0,7% so với tháng 1/2023 và giảm 10,9% so với tháng 2/2022. Trong đó, trị giá xuất khẩu sản phẩm gỗ ước đạt 490 triệu USD, giảm 0,3% so với tháng 1/2023 và giảm 29,7% so với tháng 2/2022.
2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ giảm 2 con số
Hoạt động xuất khẩu đã trở lại bình thường sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài, nhưng trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong tháng 2/2023 vẫn giảm là do tình trạng thiếu đơn hàng từ trước đó.
Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 1,6 tỷ USD, giảm 34,8% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, trị giá xuất khẩu sản phẩm gỗ ước đạt 982 triệu USD, giảm 47,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Tình trạng thiếu đơn hàng và kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài trong tháng 1/2023 là yếu tố chính khiến trị giá xuất khẩu các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ giảm mạnh trong tháng 1/2023.
Trong đó, đồ nội thất bằng gỗ là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhất và có tốc độ giảm mạnh. Dẫn đầu về trị giá xuất khẩu trong cơ cấu mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ là mặt hàng ghế khung gỗ đạt 164 triệu USD, giảm 52,9% so với tháng 01/2022; tiếp theo là mặt hàng đồ nội thất phòng khách và phòng ăn đạt 119,3 triệu USD, giảm 63,1%; đồ nội thất phòng ngủ đạt 79,5 triệu USD, giảm 64,7%…
Đáng chú ý, trong cơ cấu mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu trong tháng 1/2023, chỉ có mặt hàng viên nén gỗ có trị giá tăng và mặt hàng dăm gỗ có trị giá giảm nhẹ so với tháng 1/2022. Tình trạng khan hiếm năng lượng ở nhiều nước trên thế giới gia tăng là yếu tố chính thúc đẩy nhu cầu dăm gỗ và viên nén gỗ.
Lượng xuất khẩu viên nén tăng mạnh trong thời gian vừa qua. Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, trong năm 2022 lượng xuất khẩu đạt trên 4,88 triệu tấn, tăng 39,35% so với cùng kỳ 2021. Giá trị xuất khẩu viên nén của năm 2022 đạt trên 787 triệu USD, tăng hơn 90% so với cùng kỳ 2021.
Giá viên nén xuất khẩu trung bình năm 2022 ở mức cao kỷ lục so với 10 năm trước đó. Giá đã tăng liên tục kể từ tháng 1/2022 và có dấu hiệu hơi chững lại trong giai đoạn tháng 6/2022 – tháng 9/2022, nhưng bật tăng trở lại và đạt mức kỷ lục hơn 189 USD/tấn vào tháng 12/2022.
Lượng viên nén xuất khẩu sang Nhật Bản và Hàn Quốc chiếm lần lượt 97,5% tổng lượng và 96,7% tổng kim ngạch viên nén xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2022. Trong đó, thị trường Nhật Bản có lượng nhập khẩu tăng đột biến so với 2021.
Đại diện lãnh đạo Sở Công Thương các tỉnh Nam Trung Bộ đã chia sẻ tiềm năng, lợi thế trong hoạt động xuất nhập khẩu các mặt hàng của Ấn Độ và địa phương.
Các doanh nghiệp Ấn Độ trao đổi trực tiếp các nội dung xúc tiến thương mại với các doanh nghiệp các tỉnh Nam Trung Bộ. (Ảnh: Phan Sáu/TTXVN)
Chiều 1/3, tại thành phố Nha Trang, trong khuôn khổ Hội nghị xúc tiến hợp tác Ấn Độ và các tỉnh Nam Trung Bộ của Việt Nam, Tổng Lãnh sự quán Ấn Độ và Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã tổ chức phiên thảo luận chuyên đề về thương mại và gặp gỡ doanh nghiệp hai bên với sự tham gia của một số sở, ngành các tỉnh khu vực Nam Trung Bộ gồm Ninh Thuận, Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa và doanh nghiệp Ấn Độ.
Tại phiên thảo luận, đại diện lãnh đạo Sở Công Thương các tỉnh Nam Trung Bộ đã giới thiệu tiềm năng xuất nhập khẩu, ngành thương mại chủ lực của mình.
Đại diện các doanh nghiệp Ấn Độ cũng giới thiệu về hoạt động hỗ trợ tài chính của ngân hàng đối với xuất nhập khẩu; đồng thời trình bày về cơ hội hợp tác giữa Ấn Độ và Việt Nam thông qua việc giới thiệu khu công nghiệp Gopalpur của Ấn Độ.
Báo cáo tại phiên thảo luận, bà Nguyễn Thị Kim Bích – Phó Giám đốc Sở Công Thương Phú Yên cho biết tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2016-2020 của Phú Yên đạt trên 744 triệu USD, tốc độ tăng trưởng là 13,7%/năm. Thị trường xuất khẩu thủy sản chính gồm Mỹ, châu Âu, Trung Quốc. Sản phẩm chủ đạo là cá ngừ đông lạnh và đóng hộp, tôm thẻ; trong đó cá ngừ chiếm 65% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của tỉnh.
Tỉnh Phú Yên nhập khẩu các sản phẩm như: hạt điều thô, hóa chất, vải và phụ kiện may mặc, máy móc thiết bị, nguyên liệu thủy sản từ các nước Trung Quốc, châu Âu, Đài Loan (Trung Quốc), Mailaysia… Thị trường xuất nhập khẩu đến Ấn Độ hầu như chưa có.
“Phú Yên có tiềm năng xuất khẩu các mặt hàng thủy sản sang Ấn Độ. Thời gian tới, tỉnh mong muốn được phát triển hợp tác thương mại với các đối tác tại thị trường Ấn Độ, nhất là xuất khẩu thủy sản đồ hộp, nhân hạt điều, phân bón,” bà Nguyễn Thị Kim Bích nhấn mạnh.
Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Ninh Thuận Trần Quốc Sanh cho biết hiện chưa có sản phẩm xuất khẩu trực tiếp đến thị trường Ấn Độ. Tuy nhiên, tỉnh đã có hoạt động nhập khẩu nguyên liệu tôm thẻ chân trắng và máy móc thiết bị điện gió, điện mặt trời từ Ấn Độ. Kết quả này cho thấy trao đổi thương mại giữa Ninh Thuận và Ấn Độ còn khá khiêm tốn.
Vì vậy, tỉnh mong muốn Tổng Lãnh sự quán Ấn Độ tại Thành phố Hồ Chí Minh quan tâm giới thiệu, hợp tác thúc đẩy trao đổi thương mại nhập khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản của tỉnh qua thị trường này; xúc tiến thực hiện các dự án đầu tư tại Ninh Thuận trong lĩnh vực công nghiệp chế biến nông, thủy sản xuất khẩu.
Hiện Ninh Thuận có một số sản phẩm tiềm năng xuất khẩu như: nha đam, măng tây, nho, táo, hành, tỏi, nước mắm, yến sào, dê, cừu, tôm giống… và một số cây trồng mới (dưa lê, dưa lưới, bí, hạt đậu các loại). Các doanh nghiệp trong tỉnh sẽ đẩy mạnh xúc tiến trực tiếp với doanh nghiệp Ấn Độ ngay tại phiên đối thoại trực tiếp.
Đại diện tỉnh Khánh Hòa cũng chia sẻ về những tiềm năng, lợi thế trong hoạt động xuất nhập khẩu các mặt hàng của Ấn Độ và địa phương. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Ấn Độ năm 2022 đạt trên 437.000 USD.
Với những giá trị đã đạt được trong hoạt động thương mại thời gian vừa qua, bà Phan Thị Thu Cúc, Phó Giám đốc phụ trách Sở Công Thương tỉnh Khánh Hòa mong muốn thời gian tới các doanh nghiệp của Khánh Hòa và Ấn Độ tiếp tục hợp tác phát triển sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, đẩy mạnh xuất nhập khẩu.
Quang cảnh hội nghị. (Ảnh: Phan Sáu/TTXVN)
Cũng như tỉnh Khánh Hòa, hoạt động thương mại với thị trường Ấn Độ được tỉnh Bình Định phát triển trong thời gian qua. Các mặt hàng được xuất khẩu chủ yếu là rau củ quả, dệt may. Các mặt hàng nhập khẩu bao gồm: thức ăn gia súc và nguyên liệu, nguyên phụ liệu dược phẩm, may da giày, sản phẩm từ sắt thép…
“Với các tiềm năng, lợi thế vốn có với thị trường Ấn Độ, tỉnh Bình Định hy vọng thời gian tới sẽ có nhiều hơn các doanh nghiệp, nhà đầu tư của Ấn Độ đến khảo sát, tìm hiểu môi trường đầu tư, kinh doanh để thấy được hình ảnh của Bình Định – một tỉnh vùng Duyên hải miền Trung của Việt Nam đầy tiềm năng và thân thiện,” ông Ngô Văn Tổng – Giám đốc Sở Công Thương Bình Định cho hay.
Ông GunadharSena, Giám đốc Ngân hàng Ấn Độ chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh thông tin cụ thể về chính sách vay vốn trong hoạt động xuất nhập khẩu các mặt hàng giữa hai nước Ấn Độ-Việt Nam, đồng thời cam kết sẽ hỗ trợ tối đa các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu vay vốn khi là đối tác xuất khẩu sang Ấn Độ.
Bà Nishu Mishra thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn đặc khu kinh tế Tara Steel cũng giới thiệu về tiềm năng, giá trị của khu công nghiệp Gopalpur và mong muốn các đại biểu, doanh nghiệp của các tỉnh Nam Trung Bộ đến thăm và có những quyết định đầu tư trong tương lai.
Ở phiên đối thoại trực tiếp và theo lĩnh vực của mình, doanh nghiệp hai bên đã trao đổi về cơ hội, vấn đề pháp lý, tình hình thị trường xuất nhập khẩu…
Ngày 2/3, đoàn đại biểu Ấn Độ và doanh nghiệp các tỉnh Nam Trung Bộ sẽ tham quan thực tế tại khu cảng Nam Vân phong và khu công nghiệp Ninh Thủy (thị xã Ninh Hòa) để nắm rõ hơn điều kiện thực tế và có những quyết định đầu tư vào tỉnh Khánh Hòa nói riêng và khu vực Nam Trung Bộ nói chung trong tương lai…
Tháng 1/2023, Việt Nam xuất khẩu được 1,83 nghìn tấn cao su sang Hoa Kỳ, trị giá 2,24 triệu USD, giảm 45,8% về lượng và giảm 50% trị giá so với tháng 12/2022.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, cho biết, tháng 1/2023, Việt Nam xuất khẩu được 1,83 nghìn tấn cao su sang Hoa Kỳ, trị giá 2,24 triệu USD, giảm 45,8% về lượng và giảm 50% về trị giá so với tháng 12/2022; so với tháng 1/2022 giảm 45,4% về lượng và giảm 60,1% về trị giá. Giá bình quân xuất khẩu cao su của Việt Nam sang thị trường này ở mức 1.227 USD/ tấn, giảm 7,9% so với tháng 12/2022 và giảm 26,9% so với tháng 1/2022.
Tháng 1/2023, xuất khẩu cao su của Việt Nam sang Hoa Kỳ giảm mạnh
Năm 2022, Việt Nam xuất khẩu cao su sang thị trường Hoa Kỳ chủ yếu là cao su tự nhiên. Trong đó, chủng loại SVR 3L được xuất khẩu sang Hoa Kỳ nhiều nhất, chiếm 33,18% tổng lượng cao su xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong năm 2022.
Đứng thứ 2 là chủng loại Latex chiếm 24,96% và thứ ba là SVR CV60 chiếm 22% tổng lượng cao su xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong năm 2022. Các chủng loại cao xu xuất khẩu sang Hoa Kỳ phần lớn đều sụt giảm trong năm 2022.
Theo số liệu thống kê của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, năm 2022, Hoa Kỳ nhập khẩu 2,03 triệu tấn cao su (HS: 4001, 4002, 4003, 4005), trị giá 4,7 tỷ USD, tăng 4,9% về lượng và tăng 16,4% về trị giá so với năm 2021.
Trong năm 2022, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 13 cho Hoa Kỳ với 34,12 nghìn tấn, trị giá 59,18 triệu USD, giảm 21% về lượng và giảm 21,9% về trị giá so với năm 2021, thị phần cao su Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu cao su của Hoa Kỳ chiếm 1,68%, giảm so với mức 2,23% của năm 2021.
Trong năm 2022, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su tự nhiên lớn thứ 5 cho Hoa Kỳ, với 34,08 nghìn tấn, trị giá 58,77 triệu USD, giảm 21% về lượng và giảm 22,1% về trị giá so với năm 2021. Thị phần cao su tự nhiên của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Hoa Kỳ chiếm 3,18%, giảm so với mức 4,23% của năm 2021. Trong khi đó, cao su tổng hợp của Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng nhập khẩu của Hoa Kỳ.
Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ cho hay, trong năm 2022, xuất khẩu cao su của Việt Nam sang Hoa Kỳ chịu cạnh tranh từ nhiều thị trường, như từ Indonesia (chiếm 26,18% tổng lượng nhập khẩu cao su của Hoa Kỳ) và Thái Lan (chiếm 14,78% tổng lượng nhập khẩu cao su của Hoa Kỳ). Đặc biệt là thị phần cao su của Thái Lan có xu hướng tăng so với năm 2021.
Về phía Cục Xuất nhập khẩu nhận định, trong năm 2022, xuất khẩu cao su sang Hoa Kỳ gặp nhiều trở ngại do đồng USD có nhiều biến động. Ngoài ra, vấn đề hoàn thuế khá chậm cho các doanh nghiệp sau khi xuất khẩu cũng khiến cho vòng xoay vốn chậm lại, ảnh hưởng tới việc đầu tư thêm cho chu kỳ kinh doanh tiếp theo.
Mặc dù vậy, theo Cục Xuất nhập khẩu, xuất khẩu cao su vẫn đang trong xu hướng tích cực. Cao su Việt Nam đang ngày càng thâm nhập sâu hơn vào thị trường Hoa Kỳ. Thời gian tới, giá nhiên liệu và nhu cầu chung về năng lượng tại Hoa Kỳ dự kiến sẽ giảm và làm giảm áp lực đối với giá cả, đặc biệt là chi phí vận tải. Đây là tín hiệu lạc quan cho việc xuất khẩu cao su của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong các tháng tới.
Năm 2023, tỉnh Nghệ An đặt ra mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 2,87 tỷ USD, trong đó xuất khẩu hàng hóa đạt 2,5 tỷ USD.
Chiều 24/2, tỉnh Nghệ An tổ “Hội nghị triển khai kế hoạch xuất khẩu 2023” dưới sự chủ trì của Phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Lê Hồng Vinh.
Phấn đấu kim ngạch xuất khẩu 2023 đạt 2,87 tỷ USD
Phát biểu khai mạc hội nghị, ông Cao Minh Tú- Phó giám đốc sở Công Thương Nghệ An cho biết, bước vào năm 2022, kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi, nhiều quốc gia đã mạnh dạn mở cửa, nới lỏng các chính sách tiền tệ, song, do ảnh hưởng của xung đột Nga-Ukraine cùng với những hậu quả của đại dịch Covid-19, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn so với dự báo trước đó. Lạm phát diễn ra ở nhiều nước, đặc biệt các nước đối tác quan trọng của Việt Nam tăng cao, giá dầu và một số hàng hóa quan trọng biến động mạnh ảnh hưởng đến sự phát phát triển kinh tế xã hội nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói riêng.
“Đóng góp vào các thành tích chung đó, ngành Công Thương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của UBND tỉnh Nghệ An đã tập trung triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ được tỉnh Nghệ An giao; chủ động triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt, linh hoạt các giải pháp với nhiều cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả và đã đạt nhiều kết quả tích cực, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu được tỉnh giao”, ông Cao Minh Tú chia sẻ.
Theo báo cáo của Sở Công Thương, năm 2022, kim ngạch xuất nhập khẩu của Nghệ An đạt 2,54 tỷ USD, tăng 4,56% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 2,19 tỷ USD, tăng 3,6%. Xếp thứ 28/63 tỉnh thành trên cả nước và thứ 2 khu vực Bắc Trung bộ.
Nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng khá so với năm 2021, như dệt may đạt 457,8 triệu USD, tăng 11,5%; Linh kiện điện thoại đạt 390,6 triệu USD, tăng 16,3%; Dăm gỗ đạt 303 triệu USD, tăng 66,1%….Đáng chú ý, tỷ lệ hàng hoá xuất khẩu qua chế biến tiếp tục tăng, nhất là hàng lâm sản, khoáng sản, vật liệu xây dựng, thuỷ sản chế biến và một số hàng nông sản chế biến như chè khô, nước hoa quả.
Hiện, Nghệ An có trên 360 doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa đi trên 133 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường tăng mạnh như Trung Quốc đạt 580,8 triệu USD, chiếm 26,5% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, tăng 15,1%; Hàn Quốc đạt 321,8 triệu USD, tăng 30,6%; Hoa Kỳ 233,4 triệu USD, tăng 18,6%, Đài Loan 164,7 triệu USD tăng 27,2%; Lào 54,1 triệu USD, tăng 42,9%; Ấn Độ 43,4 triệu USD, tăng 43%; Singapore 39 triệu USD, tăng 34,6%.
Nhiều doanh nghiệp dệt may đang liên kết để vượt qua khó khăn hiện nay.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp tìm được thị trường mới như: Burkina Faso, Sao Tome và Principe, Costa Rica, Guinea Xích đạo, Niger, Djibouti, Palau, New Caledonia, Armenia, Comoros, Vanuatu, Cộng hòa Congo, Palau…. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 1.350 tỷ đồng, tăng 3,8% so với dự toán trình HĐND tỉnh điều chỉnh và bằng 81,7% so với thực hiện năm 2021.
Nổi bật, năm 2022, hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục là điểm sáng trong sự phát triển ngành Công Thương trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, tăng trưởng xuất khẩu của nhiều nền kinh tế sụt giảm.
Năm 2023, ngành Công Thương tiếp tục nỗ lực thúc đẩy phát triển xuất khẩu, mở rộng thị trường. Phấn đấu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt 2,87 tỷ USD, trong đó xuất khẩu hàng hóa đạt 2,5 tỷ USD.
Còn nhiều thách thức
Tại hội nghị, nhiều vướng mắc đã được các doanh nghiệp đưa ra nhất là nhóm hàng nông sản, thủy sản. Cụ thể, đối với thị trường Trung Quốc, nước này đang ngày càng tăng cường công tác thực thi pháp luật, các chính sách thương mại biên giới theo hướng tăng cường giám sát, thực hiện nghiêm các quy định đối với hoạt động nhập khẩu nông thủy sản trên tuyến biên giới đất liền, thông qua các biện pháp như truy xuất nguồn gốc, quy cách đóng gói, vệ sinh an toàn thực phẩm…
Theo phản ánh của các DN, hầu hết các chi phí phục vụ sản xuất đều tăng nhưng giá bán hàng khó tăng do cạnh tranh thị trường với các đơn vị cùng ngành trong nước và nước ngoài.
Một số mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc (như tinh bột sắn, hoa quả tươi) thường xuyên gặp tình trạng tắc nghẽn khu vực cửa khẩu (cửa khẩu Kim Thành-Lào Cai, Móng Cái-Quảng Ninh…) gây tình trạng giao nhận hàng bị chậm trễ…Hay nhóm khoáng sản, mặt hàng bột đá vôi trắng xuất khẩu chủ yếu sang các nước như Ấn Độ. Hiện nay, mặt hàng này đang chịu sự cạnh tranh rất gay gắt từ các đối thủ nước ngoài, đặc biệt là Malaysia do giá từ các nước này rẻ hơn nhiều.
Cũng theo phản ánh của các doanh nghiệp, hầu hết các chi phí phục vụ sản xuất đều tăng nhưng giá bán hàng khó tăng do cạnh tranh thị trường với các đơn vị cùng ngành trong nước và nước ngoài…
Ngoài ra, đối với nhóm hàng công nghiệp chế biến cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là thiếu lao động sau dịch Covid. Cụ thể, đối với mặt hàng dệt may, muốn tận dụng lợi ích về cắt giảm thuế quan từ các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA, doanh nghiệp phải chứng minh được nguồn gốc sản xuất tại Việt Nam hoặc các nước nội khối trong hiệp định từ khâu sợi trở đi đối với CPTPP, từ vải trở đi với EVFTA.
Từ nửa cuối năm 2022, lạm phát tăng và việc thắt chặt chi tiêu tại một số thị trường xuất khẩu quan trọng khiến sức mua hàng dệt may có xu hướng giảm (từ Hoa Kỳ, EU), nhiều doanh nghiệp dệt may bị sụt giảm đơn hàng nghiêm trọng. Đơn cử như mặt hàng linh kiện điện tử gặp khó khăn do khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ khi xuất khẩu sang một số nước như Ấn Độ, Châu Âu tương đối khó.
Về những vấn đề này – ông Phạm Văn Hoá Giám đốc Sở Công Thương Nghệ An chia sẻ, những khó khăn của kinh tế thế giới và thương mại toàn cầu trong cuối năm 2022 dự báo chưa thể khắc phục ngay và sẽ kéo dài sang đầu năm 2023. Nhu cầu thế giới giảm sút rõ rệt do, kinh tế toàn cầu tiếp tục gặp nhiều khó khăn, nhất là tại các nền kinh tế lớn, vốn là các thị trường nhập khẩu hàng đầu trên thế giới; Tiếp đến giá nguyên nhiên vật liệu tăng cao, theo đó giá thành sản xuất hàng hoá ở mức cao; Lạm phát tăng cao, tồn kho cao, ảnh hưởng đến cầu nhập khẩu hàng hoá của người tiêu dùng.
Theo Giám đốc Sở Công Thương Nghệ An, sự sụt giảm của nhu cầu các nước trên thế giới là khó khăn và thách thức lớn cho xuất khẩu của Nghệ An trong năm 2023.
Mặc dù vậy, ông Phạm Văn Hoá cho rằng, vẫn có nhiều yếu tố tích cực như các Hiệp định thương mại tiếp tục được thực thi lộ trình cắt giảm thuế quan; thu hút đầu tư từ các nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản… sẽ là động lực tạo thêm năng lực sản xuất mới cho xuất khẩu; các doanh nghiệp Nghệ An tiếp tục phát huy tính chủ động sáng tạo, tìm kiếm thị trường mới, khai thác lợi thế từ các Hiệp định FTA.
Kết luận hội nghị, ông Lê Hồng Vinh – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An nhấn mạnh, để đạt mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu đạt 2,87 tỷ USD, ngành Công Thương cần phối hợp để hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình tham gia xuất khẩu. Cần căn cứ định hướng phát triển thị trường xuất khẩu, nhập khẩu của cả nước đến năm 2030 và định hướng phát triển thị trường tại Đề án Phát triển xuất khẩu của tỉnh giai đoạn 2021-2025.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho biết, hiện nay tỉnh Nghệ An đang có nhiều hoạt động đẩy mạnh đầu tư hạ tầng, thu hút đầu tư, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Đồng thời, đề nghị các sở, ban, ngành, địa phương và các doanh nghiệp liên quan cần tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển nguồn hàng xuất khẩu; Rà soát Quy hoạch vùng nguyên liệu, vùng sản xuất chế biến nông nghiệp cho các sản phẩm chủ lực của tỉnh. Tích cực đẩy mạnh xúc tiến đầu tư kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào Nghệ An, trong đó chú trọng doanh nghiệp FDI trong sản xuất các mặt hàng có hàm lượng giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường.
Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất, gia tăng hàm lượng chế biến sâu và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm nông sản của tỉnh. Thường xuyên quan tâm hoạt động xúc tiến xuất khẩu; Cải thiện nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ logistics…
Trên cơ sở tiềm năng của hai bên, Na Uy – Việt Nam sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực thủy sản.
Thông tin từ Đại sứ quán Na Uy tại Việt Nam, nhân chuyến thăm Việt Nam của Quốc Vụ khanh Bộ ngoại giao Na Uy – ông Erling Rimestad từ 28/2-1/3/2023, Đại sứ quán Na Uy tại Việt Nam phối hợp cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp tổ chức Hội thảo về chủ đề “Việt Nam – Na Uy: Các cơ hội hợp tác trong lĩnh vực thủy sản và xuất khẩu thủy hải sản” tại Hà Nội.
Đại sứ quán Na Uy tại Việt Nam cho biết, sự kiện lần này được tổ chức nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác song phương Na Uy – Việt Nam trong lĩnh vực thủy sản; giới thiệu các sản phẩm hải sản mang thương hiệu Na Uy vào thị trường Việt Nam; tìm kiếm các cơ hội hợp tác mới trong nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu hải sản.
Thông qua sự kiện này kỳ vọng sẽ là cơ hội để các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp hai nước trao đổi về những cơ hội, giải pháp thực tiễn, và ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực nuôi biển, gia tăng giá trị cho sản phẩm hải sản để tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Tham gia sự kiện có: Quốc Vụ Khanh Bộ Ngoại giao Na Uy – ông Erling Rimestad, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phùng Đức Tiến, Đại sứ Na Uy tại Việt Nam – bà Hilde Solbakken cùng sự hiện diện của Giám đốc tổ chức Inovation Norway, Cơ quan Thương vụ của Đại sứ quán Na Uy tại Hà Nội – ông Arne-Kjetil Lian, Giám đốc khu vực Đông Nam Á của Hội đồng Thủy sản Na Uy – ông Asbjørn Warvik Rørtveit, đại diện Bộ Công Thương Việt Nam, VCCI, VASEP và đại diện một số doanh nghiệp Na Uy hiện đang hoạt động tại Việt Nam cũng như đang áp dụng các công nghệ của Na Uy.
Na Uy là quốc gia có nền công nghiệp đánh bắt, nuôi trồng hải sản hàng đầu trên thế giới với giá trị cốt lõi là phát triển bền vững, bảo vệ môi trường song song với việc liên tục nâng cao giá trị kinh tế và danh tiếng của hải sản Na Uy trên toàn cầu với thương hiệu “Hải sản đến từ Na Uy”. Trong khi đó Việt Nam là quốc gia có tiềm năng rất lớn trong lĩnh vực nuôi biển gắn với định hướng phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
Đại sứ quán Na Uy tại Việt Nam cho hay, Na Uy và Việt Nam đã hợp tác trong lĩnh vực thủy sản gần 40 năm. Na Uy đã từng giúp Việt Nam xây dựng Luật Thủy sản đầu tiên năm 2003 và các văn bản đi kèm; hỗ trợ hoạt động điều tra nguồn lợi thủy sản; các dự án và hoạt động nâng cao năng lực trong ngành thủy sản.
Các tổ chức nghiên cứu của Na Uy bao gồm Đại học Tromsø, Đại học Bergen và Đại học Khoa học và Công nghệ Na Uy (NTNU) đã hợp tác với Đại học Nha Trang để xây dựng một trung tâm học thuật vững mạnh với chất lượng giáo dục cao và năng lực trong lĩnh vực biển.
Ngoài ra, nhiều lãnh đạo và chuyên gia của ngành thủy sản Việt Nam đã được đào tạo tại Na Uy và hiện đang sử dụng kiến thức và chuyên môn thu được ở nước ta để đóng góp vào sự phát triển của ngành thủy sản Việt Nam. Na Uy cũng cung cấp Tàu nghiên cứu để hỗ trợ Việt Nam trong các hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực thủy sản.
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1 (RIA1) thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cũng được hưởng lợi từ hỗ trợ kỹ thuật của Na Uy trong việc thúc đẩy các phương pháp nuôi trồng thủy sản bền vững khác nhau. Vào tháng 5/2021, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Thương mại, Công nghiệp và Thủy sản Na Uy cũng đã ký kết Ý định thư về Tăng cường và Phát triển hợp tác trong lĩnh vực Nuôi trồng Thủy sản biển.
Theo Đại sứ quán Na Uy tại Việt Nam, Hội đồng Hải sản Na Uy (NSC) đang có triển lược mở rộng xuất khẩu các sản phẩm hải sản Na Uy vào thị trường Việt Nam bắt đầu từ năm 2023.
Được biết, hiện có hơn 10 doanh nghiệp Na Uy đang hoạt động tại Việt Nam trong lĩnh vực này từ phát triển con giống (Pharmaq), tới cung cấp các phương tiện và giải pháp công nghệ cho hoạt động nuôi biển công nghiệp (Scale AQ), chế biến phụ phẩm (MOWI).
Việt Nam – Na Uy thiết lập quan hệ ngoại giao hơn 50 năm. Các lĩnh vực hợp tác hiện nay của hai nước là thủy sản, chuyển đổi năng lượng, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế tuần hoàn. Đặc biệt hai bên chú trọng tới xúc tiến thương mại và đầu tư trong các lĩnh vực này. Hiện có hơn 40 doanh nghiệp Na Uy hoạt động tại Việt Nam. Tính đến tháng 3/2022, Na Uy là quốc gia thứ 41/139 đầu tư FDI vào Việt Nam với tổng 52 dự án và tổng vốn đầu tư là 200 triệu USD.