Năm 2022, Việt Nam chi gần 2 tỷ USD nhập khẩu gỗ nguyên liệu

Năm 2022, Việt Nam đã nhập khẩu lượng gỗ tròn và gỗ xẻ tương đương 6,3 triệu m3 gỗ quy tròn với giá trị gần 2 tỷ USD.

 

Luồng cung gỗ nhập khẩu từ vùng tích cực chiếm 65%

Trong báo cáo “Việt Nam nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ vùng địa lý tích cực và không tích cực hết năm 2022” do Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam phối hợp với Tổ chức Forest Trends vừa công bố cho biết, chỉ trong năm 2022, Việt Nam đã nhập khẩu lượng gỗ tròn và gỗ xẻ tương đương 6,3 triệu m3 gỗ quy tròn với giá trị gần 2 tỷ USD. Trong nhóm gỗ nguyên liệu đầu vào, gỗ tròn và gỗ xẻ vẫn là những mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất để phục vụ cho nhu cầu chế biến của ngành gỗ.

Năm 2022, Việt Nam chi gần 2 tỷ USD nhập khẩu gỗ nguyên liệu. Ảnh minh họa

Năm 2022, có 41 quốc gia/vùng lãnh thổ tích cực cung hơn 3,8 triệu m3 gỗ tròn và gỗ xẻ quy tròn cho Việt Nam. Trong cùng năm, 55 quốc gia/vùng lãnh thổ không tích cực (rủi ro) cung hơn 2,5 triệu m3 gỗ tròn và xẻ quy tròn cho Việt Nam.

Xét theo nguồn gốc xuất xứ, luồng cung gỗ tròn và gỗ xẻ từ các thị trường tích cực và rủi ro chiếm trung bình lần lượt khoảng 65% và 35% tổng lượng nhập khẩu về Việt Nam.

Lượng nhập khẩu từ các thị trường tích cực đã tăng liên tục với mức tăng trung bình 5,6% trong giai đoạn trước năm 2022, từ mức 3,52 triệu m3 quy tròn năm 2018 lên 4,15 triệu m3 quy tròn năm 2021. Tuy nhiên, con số này bị sụt giảm mất 7,9% về mức 3,82 triệu m3 trong năm 2022.

Ông Tô Xuân Phúc – Chuyên gia phân tích chính sách – Tổ chức Forest Trends – nhận định, lý do sụt giảm lượng nhập khẩu từ các thị trường tích cực chủ yếu là do thị trường đầu ra xuất khẩu bị co giảm từ nửa cuối năm 2022. Cụ thể, các đơn hàng từ các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam bao gồm Mỹ, EU do mức lạm phát cao ở các nước này sau khi chiến sự Nga – Ukraina xảy ra khiến người tiêu dùng phải thắt chặt chi tiêu, làm giảm cầu.

Ngoài ra, do tâm lý doanh nghiệp trước đó cho rằng nền kinh tế thế giới sẽ khởi sắc trở lại sau đại dịch Covid nên một lượng lớn gỗ nguyên liệu đã được các doanh nghiệp nhập khẩu từ năm 2021 để đón đầu xu hướng. Tuy nhiên, điều này không diễn ra, làm lượng gỗ nguyên liệu tồn trong nước ở mức cao. Hiện tại, các đơn hàng xuất khẩu của ngành gỗ đang giảm 50-60% so với trước đó.

“Nhiều doanh nghiệp dự đoán xu hướng trầm lắng này sẽ tiếp tục kéo dài đến hết quý I, thậm chí là quý II/2024. Nếu dự đoán này chính xác, nhu cầu nhập khẩu gỗ nguyên liệu đối với nhóm gỗ từ các thị trường tích cực vốn chủ yếu dùng để phục vụ chế biến xuất khẩu sẽ tiếp tục sụt giảm trong năm 2023”, ông Tô Xuân Phúc cho biết thêm.

Đối với nguồn cung từ các thị trường không tích cực/rủi ro, lượng nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ trong năm 2022 giảm, tuy nhiên, tốc độ giảm thấp hơn nhiều so với luồng nhập khẩu từ các thị trường tích cực. Thị trường nội địa là đầu ra cho hầu hết lượng gỗ rủi ro nhập khẩu. Lượng nhập khẩu gỗ rủi ro giảm ít phản ánh tính ổn định của thị trường nội địa.

Lượng cung gỗ nhập khẩu rủi ro lớn, với nguồn cung, các loài nhập khẩu đa dạng và sự tham gia đông đảo của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ vào khâu nhập khẩu cho thấy các thách thức trong việc kiểm soát hiệu quả luồng cung này hiện tại và trong tương lai.

Giải pháp nào để giảm luồng cung gỗ rủi ro nhập khẩu trong tương lai?

Ngành gỗ đang đối mặt với các khó khăn về thị trường đầu ra sản phẩm và các rủi ro trong khâu nguyên liệu đầu vào. Điều này đòi hỏi Chính phủ và cộng đồng hiệp hội, doanh nghiệp trong ngành cần có những hành động kịp thời trong thời gian tới để giảm thiểu các khó khăn và rủi ro này nhằm duy trì hoạt động và lấy lại đà tăng trưởng trong thời gian tới.

Ông Tô Xuân Phúc nhận định, đối với gỗ nguyên liệu từ các thị trường tích cực, do phụ thuộc nhiều vào đầu ra xuất khẩu – vốn đang trong giai đoạn trầm lắng – luồng cung này sẽ không dễ dàng mở rộng ngay.

Tại thời điểm này, Chính phủ, đặc biệt là Bộ Công Thương nên hỗ trợ các hiệp hội gỗ để triển khai các hoạt động tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm, thúc đẩy các kênh kết nối nhằm tìm kiếm cơ hội thị trường mới bên cạnh các thị trường truyền thống như Mỹ và EU.

Các doanh nghiệp trong ngành cần duy trì tâm lý tích cực, tận dụng khoảng thời gian này để xem xét, tái cơ cấu lại mô hình kinh doanh hiện tại, qua đó nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp và tìm kiếm cơ hội phát triển từ các thị trường mới. Đây là những bước chuẩn bị cần thiết để doanh nghiệp có thể đón nhận tín hiệu tốt của thị trường trong năm 2024.

Hiện tại gỗ nhập khẩu đóng góp một phần quan trọng trong tổng nguồn cung gỗ nguyên liệu của Việt Nam, trong đó khoảng gần 40% nguồn cung nhập khẩu là từ các quốc gia/vùng lãnh thổ rủi ro.

Chuỗi cung gỗ nguyên liệu từ các thị trường rủi ro, đặc biệt là châu Phi, về Việt Nam rất phức tạp. Tính phức tạp được tạo ra bởi nhiều bên trung gian tham gia chuỗi, đặc biệt là từ các công ty nhập khẩu có quy mô nhỏ lẻ tham gia chuỗi, số lượng nguồn cung lớn, thành phần loài nhập khẩu đa dạng, thông tin về các yêu cầu pháp lý liên quan tới các khâu của chuỗi cung cũng như mức độ tuân thủ của các bên tham gia chuỗi từ các quốc gia cung gỗ này hạn chế.

Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro đối với luồng cung này, Chính phủ Việt Nam cần tăng cường rà soát các chuỗi cung ứng và thiết lập các hoạt động trao đổi thông tin, giao lưu với các doanh nghiệp nhập khẩu nhằm hiểu rõ chuỗi cung ứng và xác định các rủi ro trong chuỗi. Đây sẽ là cơ sở để thiết lập các cơ chế kiểm tra, giám sát chung giữa Việt Nam và quốc gia cung ứng gỗ.

Chính phủ Việt Nam có thể cân nhắc khả năng tập trung hóa khâu nhập khẩu, chỉ cho phép các doanh nghiệp nhập khẩu lớn, có uy tín, tuân thủ pháp luật cao làm các đầu mối nhập khẩu thay vì cho phép doanh nghiệp tham gia nhập khẩu tự do như hiện nay.

Chính phủ Việt Nam cũng có thể đề nghị Chính phủ các quốc gia cung gỗ cho Việt Nam cung cấp thông tin về các doanh nghiệp xuất khẩu có uy tín tại các quốc gia này từ đó kết nối với các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu tại Việt Nam. Tuy nhiên, khi xem xét phương án tạo đầu mối các doanh nghiệp nhập khẩu, Chính phủ cần đảm bảo có cơ chế phù hợp để đề phòng tình trạng độc quyền, kiểm soát giá gỗ trong khâu nhập khẩu.

Để giảm luồng cung gỗ rủi ro nhập khẩu trong tương lai cũng cần có các biện pháp thực tế để chuyển đổi luồng cung gỗ rủi ro tại các làng nghề trong nước. Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nên phối hợp với các Bộ, ban ngành liên quan hỗ trợ các làng nghề chuyển đổi sang sử dụng nguồn nguyên liệu gỗ ít rủi ro hơn, bao gồm gỗ rừng trồng trong nước và nhập khẩu từ các vùng địa lý tích cực. “Các cơ chế và chính sách mới cần được đưa ra, tạo môi trường thể chế khuyến khích các hộ làng nghề liên kết với doanh nghiệp để sản xuất sản phẩm gỗ chuyển đổi, ưu tiên sản phẩm gỗ chuyển đổi của làng nghề trong mua sắm công, thúc đẩy quảng bá sản phẩm gỗ chuyển đổi…”, ông Tô Xuân Phúc khuyến nghị.

 

nguồn: congthuong

Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 4 cho Hàn Quốc

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho biết, 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cao su của Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 5,08 nghìn tấn, trị giá 8,02 triệu USD, giảm 16,5% về lượng và giảm 29,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022; giá xuất khẩu bình quân cao su sang thị trường này đạt 1.576 USD/tấn, giảm 15,7% so với cùng kỳ năm 2022.

Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 4 cho Hàn Quốc

Trong 2 tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc chủ yếu là cao su tự nhiên. Trong đó, chủng loại SVR CV60 được xuất khẩu sang Hàn Quốc nhiều nhất, chiếm 39,35% tổng lượng cao su xuất khẩu sang Hàn Quốc trong 2 tháng đầu năm 2023. Đứng thứ 2 là chủng loại SVR 10 chiếm 29,83% và SVR 3L chiếm 22,01% tổng lượng cao su xuất khẩu sang Hàn Quốc trong 2 tháng đầu năm 2023.

Giá xuất khẩu bình quân các chủng loại cao su sang Hàn Quốc trong 2 tháng đầu năm 2023 phần lớn đều giảm so với cùng kỳ năm 2022, trong đó giảm mạnh nhất là SVR 10 giảm 19,4%; SVR CV60 giảm 19%; SVR 20 giảm 18,6%…

Theo số liệu thống kê của Cơ quan Hải quan Hàn Quốc, 2 tháng đầu năm 2023, Hàn Quốc nhập khẩu 85,23 nghìn tấn cao su (HS: 4001, 4002, 4003, 4005), trị giá 162,88 triệu USD, tăng 1,3% về lượng, nhưng giảm 7,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc, Việt Nam và Philippines là 5 thị trường lớn nhất cung cấp cao su cho Hàn Quốc.

Trừ Thái Lan và Việt Nam, nhập khẩu cao su của Hàn Quốc từ các thị trường này đều tăng cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2022.

Trong 2 tháng đầu năm 2023, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 4 cho Hàn Quốc với 4,69 nghìn tấn, trị giá 7,32 triệu USD, giảm 42,9% về lượng và giảm 52,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Thị phần cao su Việt Nam chiếm 5,51% trong tổng lượng nhập khẩu cao su của Hàn Quốc, giảm so với mức 9,77% của 2 tháng đầu năm 2022.

Qua số liệu cho thấy, tại thị trường Hàn Quốc, thị phần cao su của Việt Nam bị thu hẹp, trong khi thị phần cao su của Indonesia, Trung Quốc, Philippines, Campuchia, Singapore… lại có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm 2022.

Tại thị trường Hàn Quốc, cao su của Việt Nam phải cạnh tranh với cao su của Thái Lan và Indonesia. Do đó, Cục Xuất nhập khẩu khuyến nghị, các doanh nghiệp cần đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng đúng nhu cầu thị trường của Hàn Quốc để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này.

 

Nguồn: congthuong

Xuất khẩu hạt điều sang Trung Quốc và Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất tăng 3 con số

2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu hạt điều sang thị trường Trung Quốc và Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất tăng trưởng tới 3 con số so với cùng kỳ năm 2022.

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cho biết, xuất khẩu hạt điều của Việt Nam trong tháng 2/2023 đạt xấp xỉ 34,3 nghìn tấn, trị giá 197,7 triệu USD, tăng 25,8% về lượng và tăng 26,9% về trị giá so với tháng 1/2023, so với tháng 2/2022 tăng 35,4% về lượng và tăng 31,2% về trị giá.

Xuất khẩu hạt điều sang Trung Quốc và Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất tăng 3 con số

Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đạt 61,5 nghìn tấn, trị giá 353,12 triệu USD, giảm 4,4% về lượng và giảm 7,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.

Tháng 2/2023, giá xuất khẩu bình quân hạt điều của Việt Nam đạt mức 5.766 USD/tấn, tăng 0,9% so với tháng 1/2023, nhưng giảm 3,1% so với tháng 2/2022. Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu bình quân hạt điều của Việt Nam ở mức 5.742 USD/tấn, giảm 3,4% so với cùng kỳ năm 2022.

Tháng 2/2023, xuất khẩu hạt điều sang nhiều thị trường chủ lực và tiềm năng tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2022, ngoại trừ Hoa Kỳ, Đức.

Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu hạt điều sang các thị trường Hoa Kỳ, Hà Lan, Australia, Canada, Đức… giảm, nhưng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất tăng trưởng tới 3 con số so với cùng kỳ năm 2022.

10 thị trường xuất khẩu hạt điều lớn nhất của Việt Nam tháng 2 và 2 tháng năm 2023

Nguồn: Số liệu của Tổng cục Hải quan

 

Nguồn: congthuong

Một số mặt hàng thực vật sẽ điều chỉnh đăng ký xuất khẩu vào Trung Quốc

Tổng cục Hải quan Trung Quốc vừa có thông báo về điều chỉnh cách đăng ký xuất khẩu vào Trung Quốc đối với một số mặt hàng thực vật.

Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) vừa có công văn gửi Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh, thành phố; Ban Quản lý an toàn thực phẩm; các hiệp hội lương thực, tiêu, điều, cà phê, rau quả; doanh nghiệp xuất khẩu nông sản thực phẩm vào Trung Quốc về việc điều chỉnh một số nội dung công văn số 953/BVTV-ATTPMT.


Công văn nêu rõ, căn cứ Công hàm của Vụ Kiểm dịch động, thực vật (Tổng cục Hải quan Trung Quốc), Công thư số 008/2023 của Phòng Kinh tế Thương mại (Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam) và Công điện số TCOCD 317 của Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, Cục Bảo vệ thực vật thông báo điều chỉnh một số nội dung của Công văn số 953/BVTV-ATTPMT hướng dẫn doanh nghiệp sản xuất thực phẩm có nguồn gốc thực vật đăng ký xuất khẩu vào Trung Quốc theo Lệnh số 248 quy định quản lý đăng ký và doanh nghiệp nước ngoài sản xuất thực phẩm nhập khẩu vào Trung Quốc (gọi tắt là Lệnh 248).

Theo đó, các mặt hàng thực phẩm có nguồn gốc thực vật quy định tại mục 1.1 của công văn số 953/BVTV-ATTPMT tiếp tục đăng ký xuất khẩu sang Trung Quốc trên Hệ thống đăng ký trực tuyến https://cifer.singlewindow.cn của Tổng cục Hải quan Trung Quốc (gọi tắt là CIFER).

Tuy nhiên, các mặt hàng rau tươi, gia vị có nguồn gốc thực vật (không nghiền, không xay), đậu khô, ngũ cốc thực phẩm (trừ gạo), hạt có dầu, hạt cà phê chưa qua chế biến, ca cao chưa qua chế biến sẽ không thực hiện trên CIFER.

Theo đó, các mặt hàng trên sẽ đăng ký theo cách nộp hồ sơ gồm các giấy tờ theo yêu cầu của Tổng cục Hải quan Trung Quốc về Cục Bảo vệ thực vật (Phòng An toàn thực phẩm và Môi trường) qua email: qlattpmt.bvtv@mard.gov.vn.

Kết quả đăng ký về mã số xuất khẩu sẽ được công bố trên trang thông tin điện tử Vụ Kiểm dịch động, thực vật (Tổng cục Hải quan Trung Quốc) là http://dzs.customs.gov.cn.

Các doanh nghiệp đã có mã số xuất khẩu (theo hình thức đăng ký nhanh trước 31/12/2021) có trách nhiệm cung cấp và cập nhật thông tin hồ sơ theo yêu cầu tại mục (5) của Công hàm 353 năm 2021 của Tổng cục Hải quan Trung Quốc trước ngày 1/7/2023.

Cục Bảo vệ thực vật khuyến cáo các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ các quy định của Lệnh 248, các hướng dẫn tại các công văn trên để thực hiện bổ sung thông tin, đảm bảo duy trì mã số xuất khẩu đã được cấp, tránh trường hợp không bổ sung thông tin Tổng cục Hải quan Trung Quốc sẽ hủy mã và tạm thời dừng xuất khẩu đối với doanh nghiệp.

Doanh nghiệp có nhu cầu xuất khẩu sang Trung Quốc cần tham vấn kỹ các quy định của Trung Quốc, đọc kỹ và cập nhật các hướng dẫn của cơ quan chuyên ngành tại các công văn trên để thực hiện.

Nguồn : congthuong

Trung Quốc là thị trường nhập khẩu hành, hẹ, tỏi lớn nhất của Việt Nam

Năm 2022 với kim ngạch xuất khẩu 17,3 triệu USD, tăng 19,9% so năm 2021, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu hành, hẹ, tỏi lớn nhất của Việt Nam.

Chia sẻ tại Diễn đàn “Kết nối giao thương, xúc tiến tiêu thụ hành, hành tím” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp cùng UBND tỉnh Sóc Trăng tổ chức chiều 17/3, đại diện Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thôn) – cho hay, năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hành, hẹ, tỏi của Việt Nam đạt khoảng 31,2 triệu USD, tăng gần 360% so với năm 2021. Trong đó, các sản phẩm này đa phần được xuất khẩu đi các thị trường châu Á (chiếm hơn 90%), sau đó là châu Mỹ, châu Âu và châu Úc.

Trung Quốc là thị trường nhập khẩu hành, hẹ, tỏi lớn nhất của Việt Nam

Tính riêng các quốc gia, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu hành, hẹ, tỏi lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch năm 2022 là hơn 17 triệu USD, chưa kể kim ngạch của Đài Loan thêm 6,6 triệu USD nữa. Các thị trường xếp sau đó là Ấn Độ, Hoa Kỳ, Lào, Nhật Bản, Myanmar…

Là đơn vị chuyên thu mua hành tím tại Sóc Trăng, nói về những khó khăn trong hoạt động xuất khẩu hành tím hiện nay, đại diện Công ty TNHH Hành tím Huy Khánh chia sẻ, thời vụ hành tím Vĩnh Châu (Sóc Trăng) có lệch so với Indonesia nhưng lại gần như trùng với lịch thời vụ bên phía Thái Lan nên gặp nhiều khó khăn khi xuất khẩu do phải chịu cạnh tranh lớn từ Thái Lan.

Mặt khác, các tiêu chuẩn để xuất khẩu hành ra các nước rất cao, nhưng với quá trình sản xuất hiện nay bà con nông dân địa phương vẫn sản xuất theo quy trình truyền thống nên khả năng cạnh tranh với các đối thủ trong khu vực còn rất hạn chế.

Đồng thời, khi xuất khẩu hành sang các thị trường khó tính như Mỹ hay Nhật Bản, các thị trường này đều đòi hỏi các giấy chứng nhận về các tiêu chuẩn trong sản xuất như: Global Gap hay GMP… Tuy nhiên, những chứng nhận trên đối với các vùng trồng hành tại Sóc Trăng đa phần vẫn chưa có.

Để đẩy mạnh xuất khẩu cũng như có đầu ra ổn định cho hành tím, đại diện doanh nghiệp này cho rằng, cần phải có sự liên kết trong sản xuất giữa các hộ nông dân trực tiếp sản xuất hành tím với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần phải xây dựng thí điểm các vùng trồng theo hướng hữu cơ để được cấp các chứng nhận về tiêu chuẩn sản xuất tiên tiến nhằm thuận tiện cho việc liên kết vùng tiêu thụ, nâng cao giá trị của sản phẩm hành tím địa phương.

Theo số liệu của Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), hiện tổng diện tích sản xuất hành đạt khoảng 14 – 15 nghìn ha. Chia sẻ một số khó khăn trong sản xuất hành tím hiện nay, đại diện Cục Trồng trọt cho biết, sản xuất manh mún, khó truy xuất nguồn gốc, thiếu tính liên kết; giá bán biến động, diện tích sản xuất có chứng nhận hạn chế, khó kiểm soát chất lượng và an toàn thực phẩm; thiếu quy trình bảo quản, dẫn đến một số thời điểm thu hoạch rộ, bán hàng tươi số lượng lớn, dẫn đến giá xuống thấp; thiếu kênh liên kết tiêu thụ, và vấn đề sâu bệnh.

Hành là sản phẩm lợi thế của rất nhiều tỉnh thành như Hải Dương, Sóc Trăng, Ninh Thuận, Quảng Ngãi… với tổng sản lượng hàng năm trên 200.000 tấn. Thời điểm tháng 2, 3 các vựa hành bước vào giai đoạn thu hoạch, do đó, nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này tăng cao hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên, theo thống kê, các tháng đầu năm 2023, sức mua của thị trường đang có xu hướng giảm, trong khi năng lực sản xuất của ngành nông nghiệp vẫn đủ phục nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Điều này dẫn tới công tác tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nói chung, hành tím nói riêng dự báo sẽ gặp nhiều khó khăn.

Theo số liệu thống kê, xuất khẩu củ hành 2 tháng đầu năm 2023 mới đạt 240 tấn, đây là một con số rất nhỏ so với sản lượng hành 200.000 tấn/năm. Do đó, ông Trần Thanh Nam – Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng kỳ vọng sự vào cuộc tham gia, hỗ trợ của tham tán Việt Nam ở nước ngoài, đây sẽ là cầu nối giúp mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm hành tím. Đồng thời, hỗ trợ quảng bá, giới thiệu thương hiệu sản phẩm hành tím của Việt Nam ra thị trường thế giới.

Đồng thời, thông qua Diễn đàn, ông Trần Thanh Nam cũng kỳ vọng sẽ là cầu nối, đưa các tập đoàn, siêu thị, doanh nghiệp nắm được tình hình sản xuất của các địa phương, từ đó, hỗ trợ kết nối tiêu thụ hành cho người dân.

Liên quan các giải pháp thúc đẩy tiêu thụ rau củ nói chung và hành, hẹ, tỏi nói riêng, đại diện Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường cho rằng, cần có những vùng sản xuất tập trung, định hướng sản xuất theo tín hiệu thị trường với những quy trình an toàn, chất lượng.

Để phát triển thị trường, nhà sản xuất, xuất khẩu cần nghiên cứu thị hiếu, quy định của thị trường nhập khẩu để định hướng sản xuất, chế biến sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó, tổ chức các hoạt động xúc tiến, quảng bá để vừa giữ được thị trường truyền thống, vừa mở rộng thị trường mới. Thêm vào đó, các nhà sản xuất cũng cần lưu ý đến chế biến để tăng giá trị, đa dạng hóa sản phẩm, đẩy mạnh liên kết để xây dựng các chuỗi giá trị cho ngành hàng.

“Các doanh nghiệp, hiệp hội cần chủ động nghiên cứu thị trường, tìm kiếm và tiếp cận kênh phân phối trong và ngoài nước. Đồng thời, nâng cao năng lực cạnh tranh, sản phẩm đáp ứng yêu cầu, chú trọng xây dựng thương hiệu sản phẩm và tận dụng ưu đãi từ các FTA”, đại diện Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường đề nghị.

Nguồn: congthuong

Thực hiện quy định gỡ ‘thẻ vàng’ IUU phát sinh bất cập từ thực tế triển khai

Đang có nhiều bất cập trong công tác cấp giấy xác nhận nguyên liệu (S/C), giấy chứng thư an toàn thực phẩm (H/C) phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu hải sản sang EU

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) vừa có văn bản phản ánh những bất cập phát sinh khi thực hiện Quyết định 81 về “Kế hoạch hành động chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), chuẩn bị làm việc với đoàn thanh tra Ủy ban châu Âu (EU) lần thứ 4”.

Thực hiện quy định gỡ ‘thẻ vàng’ IUU phát sinh bất cập từ thực tế triển khai

Theo VASEP, thực tế đang có nhiều bất cập trong công tác cấp giấy xác nhận nguyên liệu (S/C) và giấy chứng thư an toàn thực phẩm (H/C) phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu hải sản sang EU.

Cụ thể, một số doanh nghiệp mua cá ngừ vây vàng nhưng không xin được giấy S/C vì ban quản lý cảng cá cho rằng cá có size lớn không phải là cá ngừ vây vàng. Tuy nhiên, VASEP và doanh nghiệp không tìm thấy có quy định cụ thể nào quy định việc phân biệt hay phân loại cá ngừ vây vàng theo kích cỡ.

Hoặc khi doanh nghiệp thu mua cá cờ kiếm của tàu có giấy phép khai thác chính là cá ngừ đã bị Ban quản lý cảng cá từ chối cấp S/C dù quá trình ra khơi, ngoài cá ngừ là nguyên liệu khai thác chính thì ngư dân vẫn khai thác được các loại cá khác.

Một khó khăn khác là doanh nghiệp không xin được giấy chứng thư an toàn thực phẩm (H/C) cho một số lô hải sản khai thác xuất khẩu EU với các lô hàng có nguyên liệu từ tàu khai thác dài ngày.

Nguyên nhân là do cơ quan quản lý cho rằng, thời gian từ lúc bắt đầu khai thác đến bốc dỡ nguyên liệu khi cập cảng của tàu cá kéo dài mà không có hoạt động chuyển tải sẽ không đảm bảo an toàn thực phẩm.

Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp, việc tàu cá ra khơi dài ngày không đồng nghĩa với các lô hải sản cũng có thời gian lưu trữ tương ứng vì ngư dân có nhiều chuyến quăng lưới suốt thời gian ra ngư trường.

Cũng theo VASEP, Việt Nam chưa có quy định pháp quy về thời gian khai thác biển như thế nào thì mới được xuất khẩu nên việc đánh giá mức độ đáp ứng của lô hàng nếu cần thiết có thể xem xét việc sử dụng những biện pháp cụ thể để đánh giá như chỉ tiêu an toàn thực phẩm…

VASEP cho rằng, với một số vấn đề phát sinh, bất cập nêu trên đang ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp và trong mục tiêu thực hiện tốt các quy định hiện hành về chống khai thác IUU, gỡ “thẻ vàng” của Chính phủ. Do đó, vấn đề này cần được các cơ quan chức năng sớm xem xét, chỉ đạo tháo gỡ để khơi thông chuỗi khai thác, chế biến và xuất khẩu hải sản sang EU.

nguồn: congthuong

Khó khăn về thị trường và đơn hàng, xuất nhập khẩu 2 tháng đầu năm 2023 giảm 16,7%

Tính trong 2 tháng đầu năm, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước đạt 46,2 tỷ USD, giảm 16,7% (tương ứng giảm 9,28 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022.

Thống kê từ Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 2/2023 (từ ngày 16-28/2) đạt 23,16 tỷ USD, giảm 10,3% (tương ứng giảm 2,66 tỷ USD) so với kết quả thực hiện trong nửa đầu tháng 2/2023.

Xuất nhập khẩu hàng hoá đang gặp khó khăn

Tính chung 2 tháng, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt 95,83 tỷ USD, giảm 13,4% (tương ứng giảm 14,83 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022. 2 tháng đầu năm, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 3,44 tỷ USD.

Trong nửa cuối tháng 2, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 12,47 tỷ USD, giảm 7,2% (tương ứng giảm 972 triệu USD) so với kỳ 1 tháng 2/2023. Một số nhóm hàng chủ lực giảm mạnh như: điện thoại các loại và linh kiện giảm 492 triệu USD, tương ứng giảm 21%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 166 triệu USD, tương ứng giảm 8,1%; phương tiện vận tải và phụ tùng giảm 139 triệu USD, tương ứng giảm 23%…

Hết tháng 2, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 49,64 tỷ USD, giảm 10% (tương ứng giảm 5,55 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022.

Trong khi đó nhập khẩu trong kỳ 2 tháng 2 đạt 10,69 tỷ USD, giảm 13,7% (tương ứng giảm 1,69 tỷ USD) so với kết quả thực hiện trong nửa đầu tháng 2/2023.

Như vậy, tính trong 2 tháng đầu năm, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước đạt 46,2 tỷ USD, giảm 16,7% (tương ứng giảm 9,28 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022.

Bộ Công Thương nhận định, bối cảnh quốc tế đã tác động tiêu cực đến xuất khẩu của một số nhóm hàng chủ lực của nước ta trong 02 tháng đầu năm 2023. Bộ Công Thương thông tin, xuất khẩu dệt may sang 2 thị trường chủ lực là Mỹ và EU sụt giảm mạnh; các quốc gia nhập khẩu có những đòi hỏi khắt khe hơn từ các nhãn hàng so với trước; việc Trung Quốc mở cửa sẽ tạo ra nhiều áp lực đối với các quốc gia xuất khẩu dệt may như Việt Nam;

Đối với mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ, các thị trường xuất khẩu chính như Hoa Kỳ, EU sẽ tiếp tục giảm nhu cầu nhập khẩu do những ảnh hưởng từ lạm phát, suy thoái kinh tế, niềm tin tiêu dùng thấp. Với các thị trường khu vực châu Âu, dù được hưởng lợi từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới nhưng tiêu chuẩn kỹ thuật, hợp chuẩn, yêu cầu chứng minh nguồn gốc gỗ… mà phía EU đặt ra là những vấn đề không dễ vượt qua. Nguồn cung dồi dào, lượng hàng tồn kho cao tại các thị trường đặc biệt là Nhật Bản và Hàn Quốc dẫn đến xu hướng các đơn hàng chậm lại và mức giá xuất khẩu gỗ nguyên liệu giảm.

Các doanh nghiệp nhập khẩu thủy sản ở các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU, Anh… có xu hướng giảm lượng tồn kho để tối ưu hóa chi phí trong bối cảnh lạm phát tăng cao khiến khiến người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu hơn trước.

Đơn cử, với thị trường Trung Quốc, tháng 2, xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 3,55 tỷ USD, giảm 9,6% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, đây là tháng thứ 2 liên tiếp xuất khẩu sang quốc gia láng giềng này sụt giảm, trong khi đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Hoa Kỳ).

Tính chung trong 2 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 7,4 tỷ USD, giảm 5,7% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó có 2 nhóm hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên gồm: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 1,06 tỷ USD; điện thoại các loại và linh kiện đạt 2,57 tỷ USD. Thị trường Trung Quốc dù đã mở cửa trở lại nhưng chuỗi cung ứng nội địa chưa hoàn toàn hồi phục nên ẩn chứa nhiều rủi ro.

Bộ Công Thương đang tiếp tục theo dõi sát diễn biến của thị trường thế giới, tham mưu, đề xuất các khung khổ hợp tác, các giải pháp để đồng thời phát triển thị trường truyền thống và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các FTA đã ký kết khai thác hiệu quả các thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu…

 

Nguồn: congthuong.vn

Nhập khẩu hạt điều thô từ Campuchia tăng vọt, liệu có bất thường?

2 tháng đầu năm nay, nhập khẩu điều thô tăng trưởng 2 con số. Campuchia tiếp tục là thị trường cung cấp điều lớn nhất cho Việt Nam. Điều này liệu có bất thường?

Thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan cho thấy, 2 tháng đầu năm 2023, Việt Nam đã nhập khẩu 272 nghìn tấn hạt điều thô, với giá trị hơn 360 triệu USD, tăng 78,2% về lượng và tăng 52,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.

Nhập khẩu điều từ Campuchia tăng vọt, liệu có bất thường?

Trong đó, Campuchia tiếp tục là thị trường cung cấp điều lớn nhất cho Việt Nam. Trong 2 tháng qua, giá trị nhập khẩu điều từ nước này ước đạt gần 130 triệu USD, tăng 75,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Riêng cả năm 2022, Việt Nam đã chiếm tới 98,5% sản lượng điều xuất khẩu của Campuchia, tương đương 660.000 tấn, trị giá hơn 1 tỉ USD.

Ở chiều ngược lại, xuất khẩu điều 2 tháng đầu năm chỉ đạt 353 triệu USD, giảm 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, trong 2 tháng, ngành điều nhập siêu gần 7 triệu USD sau khi cả năm 2022 xuất siêu gần 400 triệu USD.

Trong bối cảnh thị trường đầu ra đang khó khăn, đơn hàng giảm, giá điều nhân và giá điều thô chưa đứng ở mức tương xứng với nhau, câu hỏi đặt ra liệu chăng giai đoạn bất thường tái diễn?

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này, ông Bạch Khánh Nhựt, Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội Điều Việt Nam (VINACAS) – cho hay, về lượng hạt điều thô nhập khẩu tăng đột biến từ Campuchia, số liệu này là đúng, bởi hiện nay đang diễn ra mùa vụ thu hoạch hạt điều tại Campuchia. Trong khi khoảng 4 – 5 năm nay, tất cả hạt điều của Campuchia đều bán cho người Việt Nam.

Nói rõ hơn về vấn đề này, ông Bạch Khánh Nhựt chia sẻ, hiện, 99% hạt điều thô của Campuchia là bán sang thị trường Việt Nam, còn 1% là họ để tiêu dùng trong nước chứ không xuất khẩu đi thị trường khác. Ở đây là do vấn đề về logistics. 1 lô hàng hạt điều, khi họ bán sang thị trường Việt Nam chỉ khoảng 1 – 2 ngày là họ có thể thu tiền, trong khi bán sang thị trường Ấn Độ, họ phải chi phí container, chi phí cước tàu biển,…

“Lợi nhuận cao, vận chuyển nhanh, thanh toán dễ dàng nên 99% điều thô từ thị trường Campuchia đang có xuất khẩu về Việt Nam và tạo nên mối quan hệ mua – bán giữa doanh nghiệp hai nước với nhau”, ông Bạch Khánh Nhựt nói.

Trong quá trình giao dịch thời điểm này, có thể doanh nghiệp Việt Nam do chưa có đơn hàng xuất khẩu điều nhân, trong khi vụ mùa thu hoạch điều của Campuchia đang diễn ra, nên họ có thể trả trước tiền hàng, còn hàng thì gửi tại kho ở Campuchia để chờ thị trường xuất khẩu sôi động trở lại. Hoặc có thể họ vận chuyển về và trữ trong kho của nhà máy.

“Nhập khẩu điều thô tăng mạnh, việc mua bán này là do doanh nghiệp hai nước đang giữ mối với nhau. Vào mùa vụ thì doanh nghiệp phải mua vào, chứ không phải là do đơn hàng xuất khẩu điều nhân của Việt Nam tăng nóng”, ông Bạch Khánh Nhựt nhấn mạnh.

Về nhập lậu hay không thì chỉ có cơ quan chức năng mới có thể kiểm soát được. Tuy nhiên, theo ông Bạch Khánh Nhựt, thực tế là có nhập lậu. Bởi lẽ, Việt Nam và Campuchia biên giới rất dài, đây lại là đường đồng bằng, khác với một số cửa khẩu biên giới giáp với Lào, chủ yếu đường đèo núi, chỉ có một số cửa khẩu được thông quan. Việc nhập khẩu điều đôi khi được vận chuyển bằng các xe ô tô tải trọng nhỏ 5 – 7 tấn chứ không cứ nhất thiết phải vận chuyển bằng container. Quản lý việc này, Hiệp hội Điều Việt Nam cũng không có chức năng.

Mặt khác, các doanh nghiệp trong nước có thể họ mua bằng các quan hệ cá nhân giữa bạn hàng với bạn hàng. Hiệp hội cũng không nắm được là doanh nghiệp nhập khẩu có khai báo với cơ quan chức năng địa phương hay không.

Ông Bạch Khánh Nhựt cho biết thêm, hiện nay, tại châu Phi, vụ mùa đang diễn ra ở các nước Đông Phi gồm Tanzania và Mozambique. Nhưng hiện nay, sản lượng nhập khẩu của Việt Nam từ các thị trường này về cũng chưa có nhiều. Bởi hiện mới đầu năm, các thị trường nhập khẩu hạt điều nhân của Việt Nam vẫn chưa khởi động hợp đồng mua mới. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất hạn chế trong việc nhập điều thô. Do đó, việc nhập khẩu điều thô hiện nay đang rất chậm so với cùng thời kỳ những năm trước.

Bởi trong bối cảnh chưa có đơn hàng điều nhân xuất khẩu, doanh nghiệp lại nhập khẩu điều thô về, điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tự “ngâm tiền” và đối diện với nhiều khó khăn trong tài chính. “Riêng về số liệu nhập khẩu điều từ Campuchia cần tính theo cả năm, khi đó, chúng ta mới có thể kết luận việc nhập khẩu là nhiều hay ít”, ông Bạch Khánh Nhựt cho biết thêm.

Nguồn: congthuong.vn

Việt Nam là nguồn cung cà phê lớn nhất cho Tây Ban Nha

Thị phần cà phê của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Tây Ban Nha từ thị trường thế giới tăng từ 27,53% trong năm 2021 lên 30,16% trong năm 2022.

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu từ Cơ quan Thống kê châu Âu cho biết, năm 2022 Tây Ban Nha nhập khẩu cà phê từ thị trường thế giới đạt 376,45 nghìn tấn, trị giá 1,37 tỷ EUR (tương đương 1,46 tỷ USD), tăng 11% về lượng và tăng 47,5% về trị giá so với năm 2021.

Việt Nam là nguồn cung cà phê lớn nhất cho Tây Ban Nha

Năm 2022, giá nhập khẩu bình quân cà phê Tây Ban Nha lên đến 3.650 USD/tấn, tăng 32,9% so với năm 2021 và là mức cao nhất trong giai đoạn 2018 – 2022. Trong đó, giá nhập khẩu bình quân cà phê của Tây Ban Nha từ hầu hết các nguồn cung tăng, ngoại trừ Hà Lan.

Năm 2022, nguồn cung cà phê cho Tây Ban Nha chủ yếu từ các thị trường ngoại khối, lượng đạt 275,77 nghìn tấn, trị giá 911,82 triệu EUR (tương đương 973,18 triệu USD), tăng 11,5% về lượng và tăng 77,8% về trị giá so với năm 2021.

Trong đó, Việt Nam là nguồn cung cà phê lớn nhất (tính theo lượng) cho Tây Ban Nha trong năm 2022, đạt 113,55 nghìn tấn, trị giá xấp xỉ 269 triệu EUR (tương đương 287 triệu USD), tăng 21,6% về lượng và tăng 78,9% về trị giá so với năm 2021.

Thị phần cà phê của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Tây Ban Nha từ thế giới tăng từ 27,53% trong năm 2021 lên 30,16% trong năm 2022.

Ngược lại, Tây Ban Nha giảm nhập khẩu cà phê từ Indonesia trong năm 2022, giảm 23,2% về lượng, nhưng tăng 12,5% về trị giá so với năm 2021, đạt 20,5 nghìn tấn, trị giá 46,95 triệu EUR (tương đương 50,11 triệu USD). Thị phần cà phê của Indonesia trong tổng lượng nhập khẩu của Tây Ban Nha từ thị trường thế giới giảm từ 7,87% trong năm 2021 xuống 5,45% trong năm 2022.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 2/2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt trên 200 nghìn tấn, trị giá 434,9 triệu USD, tăng 40,3% về lượng và tăng 40,1% về trị giá so với tháng 01/2023, so với tháng 2/2022 tăng 43,5% về lượng và tăng 35,3% về trị giá. Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 342,3 nghìn tấn, trị giá 745,28 triệu USD, giảm 7,8% về lượng và giảm 9,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.

Tháng 2/2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt mức 2.174 USD/tấn, giảm 0,2% so với tháng 01/2023 và giảm 5,7% so với tháng 2/2022. Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt 2.177 USD/tấn, giảm 1,9% so với cùng kỳ năm 2022.

Tháng 2 và 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang hầu hết các thị trường truyền thống tăng, ngoại trừ Bỉ, Nhật Bản. Đáng chú ý, xuất khẩu cà phê sang một số thị trường ghi nhận tốc độ tăng trưởng từ 2 đến 3 con số, gồm: Algeria, Hà Lan, Mexico, Nga, Italy.…

 

 

Nguồn: congthuong.vn

Tận dụng hiệu quả các FTA: “Chìa khóa” cho xuất khẩu hàng hóa năm 2023

Các hiệp định thương mại tự do (FTA) được kỳ vọng sẽ là chìa khóa để hoạt động xuất khẩu duy trì tăng trưởng trong năm 2023.

Các FTA đã được tận dụng hiệu quả

Kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài đã khiến kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng sụt giảm, trong đó có thủy sản. Song ngay khi kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kết thúc, các doanh nghiệp đã tích cực quay lại guồng sản xuất và xuất khẩu, đồng thời tận dụng tốt nhất các ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) nhằm gia tăng kim ngạch.

Xuất khẩu thủy sản dược kỳ vọng tăng trưởng trong năm nay.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), bước sang tháng 2/2023, xuất khẩu thủy sản hồi phục trở lại. Theo đó, ước tính tổng giá trị xuất khẩu thủy sản trong tháng 2/2023 đạt khoảng 662 triệu USD, tăng nhẹ 4% so với cùng kỳ năm 2022.

VASEP nhận định, xu hướng xuất khẩu trong tháng 2/2023 có dấu hiệu khả quan hơn so với tháng trước. Thời gian tới, nhu cầu của các thị trường đang có xu hướng dần hồi phục, nhất là thị trường Trung Quốc và nhiều thị trường nhỏ khác. Nguồn nguyên liệu thủy sản (tôm, cá tra) cũng sẽ tăng trong tháng tiếp theo, do vậy xuất khẩu trong tháng 3 và 4 sẽ tăng dần trở lại so với những tháng đầu năm.

Phân tích về những thuận lợi và thách thức của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa trong năm 2023, ông Phan Văn Chinh, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) chỉ rõ, sụt giảm của nhu cầu thế giới chính là yếu tố khó khăn và thách thức lớn cho xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2023. Về phía cung, tác động từ mở cửa nền kinh tế sau kiểm soát dịch Covid-19 của Trung Quốc có thể làm hàng hóa Việt Nam phải gặp cạnh tranh nhiều hơn tại các thị trường xuất khẩu.

“Tuy nhiên, cũng có nhiều yếu tố tích cực đối với hoạt động xuất nhập khẩu như các hiệp định thương mại tự do (FTA) tiếp tục thực thi lộ trình cắt giảm thuế quan; các doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục phát huy tính chủ động sáng tạo, tìm kiếm thị trường mới, khai thác lợi thế từ các FTA…”, ông Phan Văn Chinh nêu.

Có thể thấy, thực tế, năm 2022, xung đột Nga-Ukraine đã tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu, nguy cơ suy thoái kinh tế, lạm phát và lãi suất tăng khiến nhu cầu tiêu dùng giảm tại các quốc gia trên thế giới, trong đó có khu vực châu Âu – châu Mỹ.

Mặc dù vậy, các hiệp định thương mại tự do (FTA) đang có với các đối tác thị trường châu Âu – châu Mỹ như Hiệp định CPTPP, EVFTA, UKVFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam – Chile, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu (VN-EAEU FTA)… tiếp tục có tác động tích cực đối với thương mại, đầu tư, đặc biệt là xuất khẩu của Việt Nam.

Thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường các nước CPTPP năm 2022 đã tăng đến hơn 30% so với năm 2021. Riêng mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Canada tăng trưởng hơn 50% so với cùng kỳ.

Bà Võ Hồng Anh, Phó Vụ trưởng Vụ thị trường châu Âu – châu Mỹ (Bộ Công Thương) cho biết, xuất khẩu sang 4 thị trường khu vực châu Mỹ trong CPTPP (gồm Canada, Mexico, Peru, Chile) đã chứng kiến sự tăng trưởng rất mạnh. Trong đó, Việt Nam mới chỉ có FTA song phương với Chile (từ năm 2014). Nhờ vào lợi thế ưu đãi thuế quan từ hiệp định CPTPP đã đem lại nhiều dư địa cho doanh nghiệp Việt khai thác xuất khẩu sang các thị trường mới này.

Thêm một FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao nữa là Hiệp thương mại thương mại tự do giữa Việt Nam với Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen (UKVFTA). Qua gần 2 năm có hiệu lực (Hiệp định được áp dụng tạm thời kể từ đầu năm 2021 và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/5/2021), mặc dù bị ảnh hưởng không nhỏ bởi đại dịch Covid-19, song kim ngạch thương mại hàng hóa hai chiều giữa Việt Nam và Vương quốc Anh vẫn đạt tăng trưởng cao, ở mức 2 chữ số. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Anh tăng 15,4%. Các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam sang Vương quốc Anh tăng trưởng rất tốt, cho giá trị cao như cà phê, hạt tiêu, cao-su, rau quả, may mặc, giày dép… và đã có những mặt hàng tăng trưởng đến gần 100%.

Bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Da giày, Túi xách Việt Nam cho biết, thực tế, ở các thị trường có FTA như thị trường Anh, việc hoãn, hủy đơn hàng ít bị ảnh hưởng hơn, kể cả trong bối cảnh lạm phát mạnh như thời gian qua. Cùng với đó là cơ hội nhập khẩu nguyên phụ liệu có chất lượng cho sản xuất hàng xuất khẩu từ các thị trường FTA mới.

Thực tế, trong 2 tháng đầu năm, lực đẩy từ các FTA cũng đã giúp kim ngạch xuất khẩu có nhiều điểm sáng. Trong đó, trong tháng 2, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 2/2023 ước đạt 25,88 tỷ USD, tăng 9,8% so với tháng trước. Tính chung hai tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 49,44 tỷ USD.

Xem xét tiếp tục đàm phán các FTA mới

Bên cạnh việc tận dụng các FTA đã có hiệu lực, năm 2023, Bộ Công thương đang tiếp tục đẩy mạnh đàm phán các hiệp định thương mại tự do mới để mở cửa các thị trường tiềm năng. Đơn cử như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Israel đã được khởi động đàm phán từ tháng 12/2015 cho đến nay.

Xuất nhập khẩu dự báo gặp khó trong năm 2023 và các FTA sẽ là cơ hội cho doanh nghiệp duy trì tăng trưởng.

Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương) cho biết: “Chúng tôi cũng đã thúc đẩy để tiến tới gần hơn với quá trình kết thúc đàm phán Hiệp định thương mại tự do với Israel cũng như tạo một bước để có thể thâm nhập thị trường Trung Đông thông qua cửa ngõ UAE”.

Có thể thấy thị trường mới đang là mảnh đất tiềm năng để doanh nghiệp nắm bắt cơ hội. Đơn cử như tại thị trường châu Phi, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, năm 2022, kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang Algeria đạt hơn 141 triệu USD, giảm 7,8% so với năm 2021. Những mặt hàng xuất khẩu chính là cà-phê, hóa chất, hàng thủy sản, kim loại và sản phẩm, hạt tiêu. Đáng chú ý, năm 2022, Việt Nam đã xuất khẩu được mặt hàng gạo trở lại, đạt kim ngạch hơn 218.000 USD sau khi năm 2021 không thâm nhập được thị trường này.

Tuy nhiên, Bộ Công thương cũng khuyến cáo, với thị trường châu Á, châu Phi, để tận dụng tốt các FTA thì doanh nghiệp phải bảo đảm nguồn nguyên liệu đầu vào cho hàng hóa xuất khẩu. Cùng với đó, phải đẩy mạnh xuất khẩu sang một số thị trường ngách, thị trường tiềm năng như Bangladesh, Pakistan và coi các thị trường này là “bàn đạp” để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Ấn Độ – thị trường có sức mua lớn của hơn 1,4 tỷ dân… Hoặc thị trường châu Phi với nhu cầu nhập khẩu hàng hóa lên đến 600 tỷ USD/năm nhưng Việt Nam mới khai thác được 0,6% thị phần.

Nguồn: nhandan.vn

Exit mobile version